Tìm
Về Dấu Chân Xưa
Nguyễn Ngọc
Thạch
Thuở còn ngồi
dưới mái trường Trung Học Công Lập Hoàng Diệu,
Thầy Trần Phạm Hiếu của chúng tôi đã rất
đắc chí khi dùng câu ngạn ngữ Pháp “Partir c' est mourir
un peu” (ra đi là chết ở trong lòng một ít) để
dẫn chứng cho những định nghĩa Triết học
trừu tượng trong bài Tâm Lý Học “Cảm Xúc” mà Thầy
đã dạy cho lớp chúng tôi vào năm tôi đang học
lớp 12. Khi tôi vừa bắt dầu “xếp cuốc leng
theo việc bút nghiên” cắp sách đi học trở lại
nơi xứ người để làm anh “sinh viên già” sau gần
hai năm trường gian khổ đi cày “như con trâu” với
đủ các công việc lam lũ cực nhọc như xúc
tuyết, rửa chén, làm vườn, lau chùi nhà vệ sinh… hầu
có tiền để giúp gia đình còn đang sống ở
Việt Nam, lúc đó tuổi đời của tôi đã qua
tuổi sồn sồn “tam thập nhị lập” từ
lâu lắm rồi. Sau hai năm “thấm
đòn Mỹ Quốc” với đủ các mùi vị “ra
đi là chết ở trong lòng một ít” tôi lại
được nghe lặp lại câu ngạn ngữ năm
nào Thầy Hiếu đã đọc cho chúng tôi nghe bằng
tiếng Tây. Nhưng lần này tôi được nghe
qua giọng đọc thơ trầm bổng bằng tiếng
Ăng Lê có pha trộn một chút hương vị cà ri nị
của vị giáo sư người Ấn Độ dạy
môn Văn chương cổ điển Anh khi ông đọc
cho lớp English Composition 2 của chúng tôi nghe bài thơ
“Leaving” của Edmond Harraucourt. Bài thơ đó như sau:
To leave is to die a little
To die for
what we love
To leave behind a little of
ourselves
Wherever, we have been.
Bài thơ này tôi đã
phỏng dịch ra Việt ngữ như thế này:
Ra đi là chết ở trong lòng một ít
Chết vì những kỷ
niệm xa xưa mà chúng ta vẫn hằng ấp ủ yêu
thương
Bỏ lại sau lưng
những mãnh đời tan vỡ của chính chúng ta
Ở bất cứ nơi
nào chúng ta đã từng sống....
Trong cuộc sống bon chen
hằng ngày nơi xứ lạ quê người, tôi ít có
dịp ôn lại những kỹ niệm xưa mà tôi
vẫn hằng ấp ủ trong lòng. Một phần vì
bận rộn mưu sinh trong bối cảnh cả thế
giới đang điêu đứng vì nạn thất
nghiệp, một phần do hoàn cảnh éo le cha già “năm
bó gập” vẫn còn phải nuôi hai đứa con dại mà
đứa nhỏ nhất mới bảy tuổi. Nhìn
lại quãng đời đã qua rồi nghĩ lại, tôi
nhận ra tôi vẫn còn may mắn hơn các bạn
đồng môn Hoàng Diệu khác rất nhiều. Qua
những lần gọi phone về quê nhà Sóc Trăng tôi
được biết có rất nhiều bạn học
vừa phải nuôi một bầy con dại vừa
phải săn sóc người bạn đời (vợ
hoặc chồng) đang bị mắc bệnh tâm thần
như trường hợp của đồng môn
Vương Văn Tỷ ở Vĩnh Châu hoặc
đồng môn Trần Thị Lý ở Sóc Trăng. Nhưng
đau lòng nhất là đã có những bạn đồng
môn đã qua đời khi còn rất trẻ như Ngô
Trọng Sơn (Pháp văn), Mã Thành Long, Nguyễn Văn Khải
(Anh văn)... Riêng người bạn từ thuở còn
thơ ấu Nguyễn Văn Khải của tôi đã qua
đời cách đây đúng 27 năm khi mới tròn 27
tuổi!
Khi tôi ngồi viết
những dòng tưởng niệm này, rất có thể có
rất nhiều bạn đồng môn Hoàng Diệu từng
ngồi chung lớp với Khải
rất nhiều năm vẫn cứ lầm tưởng
Khải vẫn còn đang sống đâu đó ở xứ
người nhưng đã không chịu liên lạc với
bạn bè. Không giống như các bạn
đồng môn khác, tôi và Khải đã có rất nhiều
gắn bó mật thiết từ lúc chúng tôi còn rất
nhỏ. Niên khóa 1966-1967 tôi và Khải học chung lớp Nhì (bây giờ gọi là lớp 4)
do Thầy Đinh văn Năm dạy tại trường
Tiểu học Cộng đồng Đại Hải.
Trường này lúc đó do Thầy Nguyễn văn Đàm
làm Hiệu Trưởng. Thầy Nguyễn văn Đàm là
thân phụ của chị Nguyễn thị Loan (HD 66-73) là
bạn chí cốt của trò Trần ngọc Ánh (HD 68-75). Chị Ánh và Nứng Sâm có từng ghé thăm
chị Loan tại Bà Quẹo quận Tân Phú Sài Gòn
trong lần về thăm quê vừa qua. Khải, tôi và
Nguyễn thị Kim Loan, hiện là Hiệu trưởng
Trường Trung học Cấp 3 Đại Hải, luôn
giữ đúng thứ bậc “top three” trong lớp của
Thầy Năm. Khải luôn dẫn đầu lớp, tôi
luôn đứng giữa và Kim Loan đứng hạng ba. Học
đường đối với chúng tôi như...
chiến trường nên cả hai chàng họ Nguyễn
không bao giờ làm mất đi thứ bậc.... “thông minh nhất nam tử” này. Trong
trường Tiểu học Đại Hải tôi thuộc
loại học khá nhưng cũng nổi tiếng phá phách.
Hồi nhỏ tôi viết được cả hai tay vì tôi thuận tay trái và Thầy Năm hay dùng cây thước kẻ gỗ
“khẻ” vào tay tôi để nhắc tôi phải viết bằng
tay phải. Tôi đã rình lúc Thầy ra khỏi lớp lén lấy
cây thước của Thầy quăng xuống ao rau muống
trong khu “Học đường viên” tại sân trường
kèm theo lời “khủng bố hăm dọa”: “Đứa
nào méc tao lấy thước của Thầy, tao sẽ vùi
đầu đứa đó xuống ao rau muống”. Cả lớp hầu hết là những đứa
học trò quê mùa hiền lành giống như Khải nên
đâu có đứa nào dám hó hé khi Thầy Năm hỏi cây
thước của Thầy đâu. Cây
thước này mãi đến năm sau lúc dọn ao rau muống
vào mùa khô học trò của Thầy Năm đã tìm lại
được cho Thầy sau mấy tháng trời nằm
sâu dưới bùn của ruộng rau muống. Lúc
đó cây thước đã lên nước bóng loáng, đến
khi đó lũ học trò nhí mới dám
nói ra tên đứa học trò đã lấy thước của
Thầy vì hắn đã bỏ quê bỏ xứ đi học
trường khác rồi.
Trong suốt năm học
lớp Nhì chung với Khải, mỗi buổi
sáng tôi lầm lũi cuốc bộ bốn cây số từ
nhà đến trường Tiểu học tại Cống
Đôi. Lúc đó nhà tôi nằm trên giữa
đoạn đường từ cầu Ba Rinh đi vào Rạch
Vọp. Đến chiều lại lủi thủi lội
tiếp bốn cây số để trở về nhà bất
kể trời mưa hay nắng. Vất
vả nhất là những ngày trời mưa vì lúc đó tôi
phải lấy cọng dây lác cột đôi dép Lào treo toòng
teng trên cổ trong đoạn đường bùn đất
lầy lội từ nhà ra cầu Ba Rinh. Rồi sau khi đến cầu Ba Rinh mới
đi xuống bến đò của nhà máy xay lúa Ba Rinh để
rửa sạch đôi chân gầy khẳng khiu dính đầy
bùn đất. Sau đó mới dám “hạ thổ” đôi
dép Lào từ cổ xuống chân vì đường nhựa
quốc lộ nóng ran cháy giò, có tiết kiệm sợ
hư đôi dép “sịn” thì cũng phải mang đôi dép
vào. Đoạn đường này tôi đi chung với Khải
và đã làm khổ Khải rất nhiều vì trong cặp da
của tôi lúc nào cũng có sẵn cái giàng ná và thỉnh thoảng
tôi hay giương cung tác xạ rất chính xác vào mấy
trái bông gòn non trên mấy cây bông gòn trước cửa nhà của
những ngôi nhà dọc quốc lộ hoặc đôi khi cao
hứng “nẻ” vào mấy chú chó mực đang đi vơ
vẩn ngoài đường làm chủ nhà nổi giận
vác gậy chạy ra rượt hai thằng chạy... thục
mạng và đã có đôi lần tụi tôi đã từng
xém bị xe đụng.
Giờ đây tuy sống
nơi xứ người nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn
kể lại câu chuyện “lội bùn đi học mỗi
ngày” cho hai cô con gái cưng nghe để khuyến khích thế
hệ thuyền nhân thứ hai hãy cố gắng chăm chỉ
học hành nhiều hơn. Đến cuối năm lớp
Nhì, một tai nạn thảm khốc xãy ra tại làng quê
nghèo của tôi khiến Ba Má tôi đã phải cấp tốc
chuyển tôi về học tiếp lớp Nhất tại
thành phố Cần Thơ. Điều này làm tôi rất buồn
vì tôi đã phải từ giã anh bạn nhỏ Khải của
tôi để đi học xa. Mỗi buổi chiều
năm lớp Nhì, sau khi đi học về và đã làm xong
tất cả bài tập tôi thường lén Ba Má trốn ra
bãi tha ma tại cuối làng để chơi đùa với
đám bạn nhỏ cattle herder(giữ trâu) trong xóm vì trong số
này có vài bạn học chung lớp Nhì với tôi. Có lẻ
trong suốt cuộc đời của tôi, tôi sẽ không
bao giờ quên được cảm giác khoan khoái khi
đang ngồi trên lưng trâu lim dim nghe tiếng sáo diều
của mấy ông cụ già người Bắc từ làng
Quỳnh Cội kế bên làng tôi văng vẳng kêu vi vu trên
bầu trời êm ả của cánh đồng quê. Nhưng
tôi đã hoàn toàn mất đi cơ hội enjoy không khí thanh
bình đồng quê đó sau một buổi chiều “kinh
hoàng” vào mùa hè năm 1967. Vào ngày đó trong lúc tôi đang chuẩn
bị “chuồn êm” vào nghĩa địa để chơi
với mấy người bạn nhỏ, như tụi nó
nói úp mở “hôm nay tụi mình sẽ có nhiều trò chơi hấp
dẫn lắm”, thì bất thình lình Ba tôi đạp xe về
tới nhà để kiểm soát bài vở của từng
đứa con xem anh em tụi tôi học hành ra sao làm tôi phải
ở nhà không được đi chơi buổi chiều.
Khoảng xế chiều trong lúc tôi đang ngồi chơi
với mấy đứa em tại mé đường
trước cửa nhà thì một tiếng nổ thật lớn
kèm theo một cột khói nhỏ bốc lên tại cuối
làng làm mọi người trong làng phải ngưng hết
mọi công việc đang làm để chạy đến
bãi tha ma xem chuyện gì đã xãy ra. Sau đó dân chúng trong làng
quê của tôi đã chứng kiến một cảnh tượng
thật hãi hùng khủng khiếp giống như dân New York của
Liên Hưng Thoại đã chứng kiến cảnh chết
người hãi hùng trong ngày tòa Tháp Đôi bị sụp
đổ năm nào. Dân chúng trong làng đã phải
dùng võng (vì vùng quê nghèo làm gì có băng ca) để khiêng xác bảy
người bạn nhỏ, trong đó có hai bạn học
chung lớp với tôi và Khải, ra khỏi bãi tha ma.
Chỉ có một bạn thoát chết vì đang bận
đi đuổi trâu đang ăn cỏ
ở ruộng lúa nhà người ta. Có thể kể thêm cả
tôi là người cũng may mắn thoát chết vì Trời
đã xui khiến cho Ba tôi đạp xe về
tới nhà đúng lúc. Mãi về sau này qua người bạn
nhỏ còn sống sót dân làng mới biết được
tai nạn thảm khốc đã xảy
ra là do trái lựu đạn M26 của ông Ba Lé trong lúc uống
rượu say đã quăng trái lựu đạn ra để
dọa vợ vì vợ ông đã không chịu làm mồi cho
ông nhậu tiếp. Trái lựu đạn ông chỉ
quăng để hù vợ nên không rút chốt ra đã lăn long lóc trên mặt
đường và rớt xuống sông. Sau
đó ông về nhà nằm ngủ vì
đã quá say nhưng đám trẻ giữ
trâu đã nhìn thấy trái lựu
đạn rớt xuống sông và đã lén
vớt lên đem ra nghĩa địa rủ nhau
chơi “trò chơi chiến tranh” chết
người của người lớn làm
tai nạn thảm khốc xãy ra. Ông Ba Lé sau Tết
Mậu Thân cũng đã theo Lưu
Linh xuống âm phủ để... nhậu tiếp vì
ông đã chết vì trúng đạn M16 trong
lúc gây lộn với một anh lính nghĩa
quân tại đồn Cống Đôi. Sau biến cố
trên, Ba Má tôi đã quyết định “tống
cổ” tôi về Cần Thơ để cho các chú
tôi lúc đó đang dạy học tại Trung hoc
Công Lập Phan thanh Giản dạy dỗ dùm. Ba Má
tôi rất tin vào lý luận của chú Sáu
tôi: “Thằng con anh chị học không đến
nỗi quá ngu dốt nhưng ngỗ nghịch
lắm nên nếu anh chị không giao nó cho tụi em
mà cứ để nó lội bùn đi
học ở vùng quê này thì có ngày
không bị súng đạn ăn thì cũng bị
xe cán chết thôi”. Hiện giờ
chú Sáu tôi là người đàn ông duy
nhất trong cả hai bên dòng họ nội ngoại
của tôi vẫn còn sống và hiện cư
ngụ tại Philadelphia PA. Thỉnh thoảng trong
những dịp đoàn tựu cuối tuần
cô vợ gốc Sóc Trăng vui tính của tôi
vẫn thường hay vui đùa nhắc
lại câu nói này của chú Sáu mỗi khi
có người nào trong dòng họ
lỡ mồm miệng khen vợ tôi đã
“khéo chọn” được ông chồng hiền
lành để chứng minh rằng tôi chỉ
hiền lành “sau khi” có vợ chứ
thuở ấy xa xưa tôi cũng từng là
thứ “lựu đạn” chứ không hiền
lành đâu. Thế là lần
thứ nhất tôi đã phải xa người
bạn nhỏ hiền lành của tôi để
chuyển về học lớp Nhất tại
CầnThơ. Tôi đã vào
học lớp của Thầy Phạm văn Út
tại trường Tiểu học Cộng
Đồng Thới Thạnh mà dân địa
phương thường quen gọi là
trường cầu Rạch Ngỗng. Thầy Út nước da hơi ngâm đen,
tướng người rắn chắc
và rất quý cậu học trò Bắc
kỳ nho nhỏ tánh tình hoạt bát vui vẻ
từ Cống Đôi mới chuyển về.
Tuy nhiên giọng nói “Bắc kỳ cục” của
đứa học trò này đã làm
náo động lớp Nhất A của Thầy.
Trong giờ ra chơi, lẫn lộn trong những
tiếng la hét vui đùa Thầy đã nghe
được những câu vè chọc ghẹo
cậu học trò nhỏ này chẳng hạn
như:
Bắc kỳ con, bỏ vô lon kêu chít chít,
bỏ vô đít... hết kêu.
Nam kỳ ăn
cá bỏ xương. Bắc kỳ lượm
lấy kho tương ăn dần.
Bắc kỳ ăn
cá rô cây. Ăn nhằm lựu đạn
chết cha Bắc kỳ...
Nghe đến câu
thứ ba này thì cậu học trò
Bắc kỳ nho nhỏ mới chết hụt
vì... lựu đạn đã nổi máu...
du côn lên và sắn tay áo lên “oánh lộn”
túi bụi với đám bạn đồng môn
nhí đang giỡ trò “ma cũ bắt
nạt ma mới”. Học thì ít, oánh
lộn thì nhiều, bạn hiền Nguyễn văn
Khải thì đang sống ở cách xa hơn
bốn chục cây số chứ đâu còn
ở gần bên để can gián nữa nên
kết quả học tập năm đó của tôi
đã tuột dốc... thê thảm. Đang từ
“top three” tuột xuống còn “top ten”. Đến
cuối năm lớp Nhất lúc tôi nộp
đơn thi vào lớp Đệ Thất của
trường Trung học Phan thanh Giản, chú
Sáu tôi đã “phán” một câu nghe thật
kém... lạc quan: “Thi thì thi cho vui thôi chứ
gần 4000 học trò lớp Nhất thi mà
chỉ chọn ra tám lớp Đệ Thất 480
người mà cháu thì học xuống
dốc quá nên cũng khó đậu lắm”.
Vậy mà cuối cùng “chó đã ngáp
phải ruồi” vì trong số 480 sĩ tử
được chọn, tôi đứng hạng
61/480 làm cả gia đình tôi... té bật
ngửa ra vì ngạc nhiên và tôi đã
phải từ giã trường La San Khánh
Hưng để trở lại Cần Thơ. Chẳng
qua là vào tháng tám năm đó, Ba tôi
nghĩ là tôi không thể đậu vào
trường Công Lập được nên
đã cho tôi vào học trường tư
thục trước vì trường tư khai
giảng sớm hơn trường Công Lập.
Lúc tôi vừa học xong Đệ Thất là
ngay vào thời gian sau chiến cuộc Mậu Thân. Lệnh Tổng động viên đã làm
cho các chú của tôi phải từ giã
Cần Thơ để khăn gói vào quân
trường Thủ Đức. Do không còn
ai trông chừng để tôi khỏi phải
“vừa học vừa oánh lộn” nữa
nên Ba tôi lúc đó đang làm việc tại
Tòa Hành Chánh tỉnh Ba Xuyên đã
nhờ Thầy Ngô Trọng Bình , hiện đang
định cư tại Pháp, thuyết phục dùm
Thầy Hiệu Trưởng Phan Ngọc Răng,
đã qua đời, để cho tôi
được chuyển về học lớp
Đệ Lục, sau này đổi lại là
lớp Bảy, tại trường Trung học Công
Lập Hoàng Diệu. Khỏi phải giải thích
thì cũng biết là tôi vui mừng như
thế nào vì cuối cùng tôi đã
được học chung trường với
người bạn chí cốt Nguyễn văn
Khải và vui nhất là được
ở trọ chung nhà tại nhà ông “Chệt Bo”
tại đường Lý thái Tổ
với Khải. Ông Chệt Bo hiện vẫn còn
một người con trai sinh sống tại
Đất Sóc là “Ông Chệt Châu”, co-owner của khu
dân cư Minh Châu đối diện sân vận động
cũ. Khu dân cư này là nơi đã chôn
dấu rất nhiều kỷ niệm của tôi
với Khải vì trong những ngày mưa
đầu mùa chúng tôi thường lội
ruộng đi bắt cua tại đây đem về
nấu với canh rau đay.
Trong
thời gian học chung trường Hoàng
Diệu, Khải và tôi đã chơi rất thân
với một người bạn nhỏ cũng
từ nhà quê lên tỉnh học, đó là
trò Liên Hưng Thoại từ Lịch Hội
Thượng lên Sóc Trăng, Thoại học
cùng một lớp với Khải. Thoại
ở trọ tại nhà của ông ngoại cũng
chung một xóm với tôi và Khải nên hàng
ngày với trang phục rất đơn giản
áo thun quần tà lỏn thêm cái giây bùa
đỏ toòng teng trên cổ hay chạy tới
chạy lui sang nhà tụi tôi để xù xì
rủ Khải đi chơi hoặc đi học.
Có thể do cả hai trò này đều
hiền lành nên cả hai trở nên gần gũi
thân thiết nhau “như cây liền cánh như chim
liền cành” giống như cặp bài
trùng lúc Khải còn học tại
trường Hoàng Diệu. Năm tôi đang học
lớp tám, một trận hỏa hoạn
đã xãy ra trong xóm nhà lá của
chúng tôi và cả xóm đã xúm lại
cùng nhau chữa cháy. Cậu học trò
nhí lớp tám Liên Hưng Thoại cũng
lấy thùng chạy đi xách nước
chữa cháy. Có thể do đôi thùng
nước to hơn cái thân hình “vịt
đẹt Thoại của lớp 8A3” nên Thoại
“lùn” nhà ta đã bị vấp té
đập nguyên cái bàn tọa xuống đất
đau điếng người giống như một
cao thủ Thiếu Lâm Tự vừa bị trúng
nhằm... “độc chưởng”.
Sau khi bị trúng độc chưởng cao
thủ Thiếu Lâm này có lẻ bị rối
loạn kinh mạch sao đó nên đi đứng
“không được ngay ngắn” và mỗi
ngày anh bạn hiền Nguyễn văn Khải của
tôi đã phải “từng bước
từng bước thầm” dìu bạn
Thoại đi học như dìu dắt
“người tình trăm năm” mất gần
nửa năm trời. Gia đình Thoại
lúc đó đang là chủ nhà máy xay
lúa thuộc loại có của ăn của
để giống như một Donald Trump của vùng
Lịch Hội Thượng nên đã không tiếc
tiền của bỏ ra để tìm đạo
sĩ “đả thông kinh mạch” cho Thoại nhưng cho
đến gần hết năm lớp tám Khải
vẫn phải “tay trong tay” (giống như hai anh chàng...
gay đường Simpson của vùng downtown Philly)
dắt dìu bạn Thoại đi học. Cho
đến một hôm, như có một phép lạ,
có một ông cụ già, hình dạng giống
như một vị Đạo Sĩ ở đâu trên
núi Tà Lơn mới hạ san xuống
đồng bằng, lơn tơn đi đâu
lỡ đường ghé vào nhà Ba Ma
Thoại xin miếng nước uống cho
đỡ khát. Nhìn tướng đi “không
được ngay ngắn nghiêm chỉnh” của
Thoại lúc Thoại bưng nước ra, Cụ
đã hỏi lý do tại sao thằng nhỏ
đi đứng sao khó khăn vậy. Sau khi nghe
kể lại câu chuyện với vẻ mặt
rất buồn bả của Mẹ Thoại cụ già
đã biểu Thoại lấy giấy bút ra và
sau đó đã hí hoáy ghi lại cho gia
đình Thoại một toa “thần dược”
để chữa trị cho Thoại. Lúc đi
cắt thuốc, gia đình Thoại đã
rất ngạc nhiên vì giá tiền của toa
thuốc “đả thông kinh mạch” cho Thoại từ
vị cao tăng Thiếu Lâm bí mật kia chỉ
có giá bằng một phần mười
các toa thuốc đắt tiền mà gia
dình Thoại vẫn mua cho Thoại. Sau năm 1978,
Thoại đã đến Mỹ lúc còn rất
trẻ. Sau một thời gian cố gắng
vừa làm vừa học ngành Hóa
Dược, Thoại đã học hành
thành đạt với mảnh bằng Ph.D. in
Chemistry từ University of Columbia.
Thoại vẫn luôn ước mơ sẽ chế
biến thuốc Đông y - Herbal medicines - thành thuốc
viên để hạn chế bớt phản ứng
phụ (side effects) của thuốc Tây y. Phải chăng
là Thoại muốn nối gót vị Đạo
Sĩ bí mật, vị ân nhân của Thoại ngày
xưa, để cứu nhân độ thế chăng?
Thoại có lần đã tâm sự là
có hai điều làm Thoại nhà ta suốt
đời áy náy trong lòng là chính
nhờ thần dược từ vị
đạo sĩ ẩn danh nọ mà sau một
thời gian được thoa bóp bằng
thuốc dược thảo, Thoại đã đi
đứng bình thường trở lại
nhưng đã không tìm được
người thầy thuốc để đền
ơn. Điều khổ tâm thứ hai của Thoại
là không thể “đền ơn đáp nghĩa”
cho người bạn quá cố Nguyễn văn
Khải. Khi gặp lại tôi tại New Jersey vào
năm 2005 câu đầu tiên Thoại hỏi là xin
địa chỉ của Khải để thăm hỏi
và “đền ơn đáp nghĩa” nhưng
đã quá trễ vì Khải đã qua
đời từ hơn hai chục năm về
trước rồi. Tôi đã có diễm
phúc lại được làm bạn
đồng môn tại trường Hoàng Diệu với
người bạn hiền lành nhất trên
đời Nguyễn văn Khải của tôi suốt
ba năm lớp 7, 8, 9. Tôi học lớp Pháp
văn, Khải học lớp Anh Văn 7A3, 8A3, 9A3 chung
với các bạn Liên hưng Thoại, Nguyễn
hoàng Đạo, Nguyễn hồng Võ, Lý
hùng Kiệt, Phạm văn Thu, Trần văn Long, Phan
thanh Giang, Lâm văn Chung…
Đến năm 1972 do
chiến cuộc VN ngày càng trở nên khốc
liệt, lệnh Tổng động viên
được ban hành. Để tránh khỏi
việc phải đi quân dịch sớm nhiều
trò Hoàng Diệu đã “nhảy rào”
khỏi trường Mẹ Hoàng Diệu để
học “nhảy lớp” ở các
trường khác. Lớp Khải và
Thoại những trò sinh năm 1956 phải học
nhảy lớp khá đông như Trần văn
Long, Nguyễn văn Khải, Lý Hùng Kiệt rủ
nhau học nhảy lớp hết. Khải đã
bỏ lớp 10 vào học lớp 11 tại
trường La San. Với tánh tình siêng
năng cần cù và nhất là rất
mực đạo đức và hiền lành
nên tuy học nhảy lớp nhưng đến khi thi
Tú Tài Khải vẫn đậu cao với
hạng Ưu Ban Khen (hạng Tối Ưu, tiếng
Pháp gọi là Tres Bien còn tiếng Mỹ
gọi là Very High Honor) là hạng cao nhất
của kỳ thi Tú Tài IBM năm 1974. Đây là
một điều rất đáng tự hào cho
các cựu học sinh Hoàng Diệu đã
nhảy rào đi học nhảy lớp, vì
“đem chuông đi đánh xứ người”
mà chuông kêu to được như vậy là
hách xì xằng lắm. Lúc học
tại trường La San, Khải đã ngồi
chung lớp với một A Só (con dâu) của
Hoàng Diệu là chị Trần thị Bạch
là phu nhân của trò Quách khánh
Phước (HD 68-75 Anh văn) hiện đang cư
ngụ tại California. Sau khi đậu Tú Tài
với hạng Ưu năm 1974, Khải đã
rời SócTrăng lên Cần Thơ học tại
Đại Học Khoa Học Ban S.P.C.N. (khoa học Lý
Hóa Vạn Vật) làm cho tôi lại phải
ngậm ngùi chia tay lần thứ hai với
Khải, người bạn thân thiết lâu năm
của tôi. Sau biến động thời cuộc 30
tháng tư năm 1975, Khải đã quá
chán nản với cảnh đón xe than
đầy bụi bặm để lên Cần Thơ
học. Đi xe đạp như Anh Nguyễn khắc
Liệu của tôi, hiện đang định cư
tại Úc, thì “oải” quá Khải đạp
không nổi. Thế là cả hai đứa tụi
tôi rủ nhau về quê làm ruộng tại Đại
Hải. Và như vậy là thêm lần thứ
hai chúng tôi lại có dịp đoàn tựu
không phải để lo việc sách đèn mà
là để cùng nhau “xếp bút nghiên theo
việc... cuốc leng”. Những tháng ngày lam
lủ làm ruộng của chúng tôi tuy vất vả
cực nhọc nhưng rất vui. Hàng ngày sau
một buổi đồng áng vất vả hai
đứa tôi thường kéo nhau ra
vườn cây ăn trái sau
nhà tôi để cạp ổi xá lị, uống
nước dừa tươi hoặc ăn
mía... Trong tất cả mọi công việc, việc
gì tôi cũng làm khá hơn Khải nhưng
chỉ có hai việc tôi chịu thua hoàn toàn.
Khải có thể ngồi học chăm chỉ
từ ba đến bốn tiếng liên tục trên bàn
học là chuyện rất bình thường.
Còn ăn mía thì Khải có thể xơi
một hơi từ ba đến bốn khúc trong khi
tôi chưa xước xong một khúc mía.
Đến cuối năm
1977 do quá mệt mõi với cảnh vác leng
đi đào thủy lợi trong lúc... chủ
nghĩa sách vở vẫn còn... đầy
một bụng nên nhân tiện Trường Cao
Đẳng Sư Phạm Cần Thơ đang
tuyển sinh hai lớp đào tạo giáo viên
dạy Toán, Khải đã “xếp cuốc leng theo
việc bút nghiên” để đi học lại.
Đến lúc ra trường năm 1979 Khải
đã may mắn được bổ nhiệm
về dạy ngay tại trường Phổ thông
Đại Hải là nơi tôi và Khải
đã từng học Tiểu học ở
đó nay đã được nâng cấp
thành trường Trung học. Đúng là
“Châu về Hợp Phố” như tôi vẫn
thường nói đùa với Khải
lúc Khải vừa mới tốt nghiệp.
Đến cuối năm 1982, sau đúng ba năm
giảng dạy bộ môn Toán tại Đại
Hải, thì Khải đã bị phát bệnh
nan y trong lúc đang làm Phó Hiệu
Trưởng của trường. Da mặt
và da chân tay của Khải
đã càng lúc càng bị sưng đỏ
lên như người bị long ben rất ngứa
ngáy. Ban đêm thì thường bị mất
ngủ triền miên. Gia đình đưa Khải lên
Bệnh viện Da liễu ở Cần Thơ thì
bệnh viện cũng chỉ chẩn đoán qua loa
là bị “bệnh ngoài da” sau đó cho uống
vài loại thuốc dân tộc vớ vẩn
rồi cho về chửa trị tại nhà.
Ngày qua ngày sức khỏe của Khải
đã ngày càng sa sút
hơn. Trước Tết năm 1983, trong lúc
đi dạo vòng quanh sân sau nhà, do Khải
đã quá yếu sức bước đi
không vững nên đã bị trượt chân
té xuống cái ao rất sâu sau nhà. May mà
cậu em của Khải chạy ra vớt lên kịp
nếu không Khải đã bị chết đuối
hôm đó rồi. Tết Nguyên Đán năm 1983, sau
nhiều năm tháng “lênh đênh phiêu bạt sông
hồ”, tôi đã lần mò trở về quê
cũ ăn Tết với gia đình và
đã lội bộ lên thăm bạn hiền lần
cuối cùng để từ giã bạn
trước khi tôi ra đi đến một
phương trời xa lạ, không biết
được sẽ là nơi nào. Khải
đã khóc và nói với tôi: “Hình
như tớ bị bệnh phong cùi đó
Thạch ơi vì lúc học ở La san
tớ thỉnh thoảng vẫn vào trại cùi
Hàn Mặc Tử để săn sóc cho
các em bé chưa bị cùi nên có khi nào
bị lây chăng?”. Tôi đã gạt nước
mắt trấn an bạn tôi: “Cùi gì mà
cùi, đừng nói tầm bậy, bệnh
cùi mấy chục năm sau mới phát ra
chớ đâu có phát ra lẹ bao giờ
đâu và Khải có đeo găng tay nên không dễ
bị lây đâu”. Tới lúc bắt tay từ giã Khải thì Khải
đã quá đuối sức không đưa tay
lên nổi nữa nên tôi phải đỡ tay
bạn lên... Nước mắt tôi đã
ướt đẫm mặt tôi và cánh tay của bạn tôi trong giây phút
đó, giây phút chia tay vĩnh biệt. Tôi không
ngờ đó là lần cuối cùng
chúng tôi gặp nhau. Đúng vào đêm
Khải qua đời vào ngày 14 tháng ba năm
1983, trong lúc đang nằm ngủ mơ màng tôi
đã có cảm giác hình như có
người nằm kế bên mình mặc
dầu lúc đó tôi chỉ nằm ngủ
một mình trong trạng thái nửa tỉnh
nửa mê. Người nằm kế bên tôi
là... Nguyễn văn Khải đang mặc bộ
quần áo y như hôm tôi gặp Khải lần
cuối cùng và Khải đang nhẹ nhàng
nói với tôi “Tớ chết rồi Thạch
ơi! Ra đi bình an và hãy
luôn nhớ đến nhau nghe”. Sau đó tôi
đã bàng hoàng thức giấc và
hoảng hồn tự hỏi không lẻ bạn
mình đã qua đời và đã
về báo mộng cho mình hay tin chăng? Đến
ngày 17 tháng ba 1983, đúng ba ngày sau ngày
đó cô Năm của tôi mới tìm
được tôi để báo tin buồn bạn
Khải của tôi đã qua đời và
đã an táng ngày 16 tháng 3 năm 1983. Tôi
càng bàng hoàng hơn khi cô tôi kể lại
bạn tôi đã mất đúng vào đêm tôi
nằm mộng thấy bạn đang nằm
kế bên tôi... Tôi đã bật khóc vì niềm ân hận đã không kịp trở
về để đưa tiễn bạn tôi đến
nơi an nghỉ cuối cùng. Sau khi đến Hoa
Kỳ, tình cờ tôi đọc được
vài tài liệu y khoa nói về chứng
bệnh nan y “blood cancer” rồi nhớ lại
những giờ phút cuối đời
của bạn Khải hiền lành của tôi thì
tôi nghiệm ra có lẻ Khải đã mắc
chứng bệnh nan y này nên cuộc đời
bạn Khải của tôi đã quá vắn
số.
Ngày
tháng dần trôi, thắm thoát đã 27
năm trôi qua. Thông thường những
người đã qua đời sẽ rất
mau chóng bị chìm vào quên lãng theo quy
luật của tạo hóa: “Đời sống con
người chóng qua như hương cỏ,
như bông hoa nở trên cánh đồng, một
cơn gió thoảng đủ làm nó biến
đi, nơi nó mọc cũng không còn mang vết
tích...” luôn luôn là một quy luật ngàn
đời bất di bất dịch. Nhưng
đối với tôi ngày nào tôi còn hơi
thở thì ngày đó hình bóng
của Khải, người bạn đồng môn
Hoàng Diệu lâu năm của tôi, sẽ mãi mãi
là một đóa hoa hướng dương
tươi thắm thật đẹp trong suốt
cuộc đời tôi.
Nguyễn Ngọc
Thạch HD 68-75 Pháp văn
Kỷ niệm
ngày giỗ thứ 27 của Nguyễn văn
Khải HD 68-75 Anh văn
March 14, 1983 - March 14, 2010