Thơ Viết Dưới Bàn
Lâm Hảo Khôi
Cuối tháng ba, gần hết
mùa thu, mùa thu ở Úc không giống như
mùa thu ở các nước Âu Mỹ, với thời
tiết dễ chịu và những con đường
ngập lá vàng trên các lối đi thơ mộng ở các
công viên.
Riêng Sydney thì
vẫn là những ngày nóng và có hôm nóng đến độ có
thể nghe tiếng máy tôn nhà ông bạn già tôi trở mình
bực bội. Nhưng dù sao cũng
đỡ hơn những ngày hè tháng mười một
mười hai. Tháng của jacaranda
nở tím cả sân vườn người hàng xóm. Có người bạn thời mới qua
định cư được gia đình người Úc
bảo trợ về vùng Casino một thị trấn
nhỏ dân thưa thớt cách rất xa thành phố Sydney.
Anh nói là đi đâu cũng thấy màu tím, có những con
đường họ trồng toàn jacaranda, mùa hè nở tím
hết, chắc là tím hơn cả những đồi hoa
sim của nhà thơ Hữu Loan. Tôi nghe bà con ở đây
họ gọi jacaranda là phượng tím. Ông
bạn già của tôi thì nhứt định là không ưa cái
màu tím này. Ông bảo cái màu tím này nó thê
lương và u ám quá. Tôi hỏi ông vậy
chớ hoa phượng của ông Thanh Sơn thì sao? Ông cười.
Tôi chào ông
bạn già ra về sau khi đã xong tách café và bình trà xanh
của Nhựt, ông này không ưa trà Tàu vì sợ “hóa chất
ô nhiễm”. Ông là ông bạn già thường chia sẻ
với tôi những ưu tư về thời thế, những
chuyện thời sự đông tây kim
cổ cho tới những cuộc đàn áp thô bạo ở
Việt Nam, ở Miến Điện, Trung quốc. Những hy vọng rồi tuyệt vọng về
một nền dân chủ nào đó sắp hình thành.
Dĩ nhiên là ông cũng chia sẻ với tôi nhiều show
nhạc rất hay mà tôi nhận được qua email. Trên đường về nhà tôi chợt nghĩ
sao ở cái tuổi thất thập cổ lai hy rồi mà
ông vẫn còn khoái nghe “Nỗi buồn hoa phượng”.
Tôi chợt nhớ những người
bạn cũ năm nào. Những hình ảnh bạn bè cứ
lan man trong đầu. Nhiều
đêm nó cứ như cái màn ảnh truyền hình nằm
chắn ngang không cho tôi đi vào giấc ngủ. Ai mà
không cần giấc ngủ chớ! Chợt
nhớ ông bà mình hay nói, người già hay nhớ chuyện cũ.
Già thật rồi sao? Tôi nhìn
tấm hình mình trên vách hình chụp kỳ thi tú tài. Hơn bốn mươi năm rồi.
Hưởng
thời trung học không thân với tôi nhiều. Nhưng chúng tôi có quá nhiều kỷ niệm
thời đi dạy học ở Kế Sách và nhứt là
sau ngày mất nước. Những ngày
mà gặp nhau anh em cứ thở ra bởi chỉ thấy
tương lai mịt mờ. Có những ngày lênh
đênh trên sông Hậu giang từ cù lao Dung về Cần
thơ giữa sóng nước mênh mông và thanh tịnh đó
chúng tôi cố hít thở cho đầy lồng ngực cái
không khí tự do không bị ô nhiễm bởi những khẩu
hiệu ngu ngơ những lô nhô bảng đỏ sao vàng. Giữa trời nước mênh mông đó chúng tôi
ngồi nhắc chuyện xưa. Quê Hưởng
ở cù lao Dung, ba má gởi anh lên Sóc Trăng
ở trọ nhà người thân để đi học. Ngày đó Hưởng là cậu học trò nhút nhát
ngồi tuốt ở bàn sau chót. Ít nói ít cười
nhưng rất tốt với bạn bè và lễ độ
với thầy cô trong lớp. Lớp mười trai, gái
học chung. Lớp mười
là thời vàng son ở trung học vì không phải thi cử
gì nên cứ học tà tà dưỡng sức cho kỳ thi tú
tài một năm sau. Và anh để ý
một cô bạn cùng lớp. Anh kể.
Mỗi sáng anh tới lớp rất sớm tới chỗ
cô ấy để đọc thư. Tôi hỏi sao không mang về nhà đọc. Anh cười, thơ viết dưới bàn
chỗ học sinh để tập vở. Đọc xong thơ anh bôi bỏ liền.
Tan học anh là người về sau cùng vì còn phải
viết thơ trả lời cho người ta. Chuyện tình viết thơ bằng phấn kéo dài
cũng khá lâu. Nếu tính mỗi lần viết là
một lá thơ thì anh có hơn trăm lá thơ tình. Có
lần anh được thơ: “ngưng viết một
lúc đi vì con bạn nó để.”. Anh
trả lời ”thơ sau viết chỗ
anh ngồi”. Thi xong lớp đệ nhị thì chia tay. Lần cuối cùng gặp nhau
ở nhà cô ấy. Tấm hình cô tặng anh
còn giữ hoài trong bóp cho tới một hôm bà xã nhìn thấy
khi soạn áo quần để giặt. Một cuộc chiến tranh lạnh xẩy ra và
hậu quả còn kéo dài nhiều năm sau đó mới
hết.
Bây giờ
muốn gặp nhau chúng tôi phải bay gần 1000 cây số
đoạn đường Sydney Brisbane. Trước 75 chúng tôi dạy học cùng quận
Kế Sách. Trường của Hưởng ở xã
Thới An Hội, lâu lâu có dịp anh ra
Sóc Trăng bằng Honda thường ghé tôi chơi ở
chợ quận. Có buổi sáng ngồi cà phê trong nhà
lồng, cả hai cùng bị thu hút
bởi một người đàn bà ngồi trong chợ. Tay bà làm động tác như một người
đang xé giấy, xé xong một lúc bà lại ra điệu
bộ như ném bỏ một vật gì đó. Hôm sau vô lớp tôi hỏi mấy em học trò.
Chúng nó cười. A, bà xé thơ tình,
người ta đặt bà đó là bà xé thơ tình đó thầy.
Tôi hỏi sao mấy em biết. Một em ngồi đầu bàn nhanh miệng
kể. Nguời ta nói hồi đó
bả có chồng đi làm xa. Chồng
bả có bồ, bỏ lá thơ trong túi, về thăm nhà
bị bả bắt gặp bả xé thơ bỏ rồi
điên luôn tới giờ. Tội
nghiệp bả quá thầy…
Tôi nhắc chuyện này cho Hưởng
nghe, nói coi chừng. Hưởng cười
chuyện cũ mấy chục năm rồi còn gì. Bây giờ muốn có người nhắc lại
chắc cũng ít ai còn nhớ. Tháng
mười, mười một hàng năm tôi thường
lên Brisbane thăm bạn luôn thể để nhìn hoa
Phượng của ông Thanh Sơn. Hoa Phượng ở
đây trồng dọc hai bên đường như hoa đào
ở California hoặc ở Vancouver của Canada. Hoa Phượng có cái vẻ gì hơi nhà quê, nó
thường mọc ở xứ nóng nghèo các nước Á
và Phi châu. Nhưng đi dưới cái bóng rợp mát
của hoa Phượng những ngày hè ở Brisbane thì không
thấy quê mùa chút nào mà càng làm thành phố Brisbane gần gũi với những con đường
những phố xá Việt nam ngày xưa hơn. Chắc
cũng phải để lắng nghe tiếng ve sầu
nữa chớ cho đủ bộ ba: hoa phượng-ve
sầu và lưu bút….
Lâm Hảo Khôi