Phan Rang, Nỗi Hờn Di Tản
Lạc
Long Huỳnh Quốc Phú
LỜI NÓI ĐẦU:
Đă ba mươi mấy
năm rồi, nỗi hờn di tản tưởng đă phôi
phai. Nhưng không, cứ mỗi “tháng tư đen”
về, vết đau lại nứt ra. Chuyện ngày xưa
vẫn lảng vảng trong đầu những người
đă từng đóng góp xương máu trong cuộc chiến.
Càng già niềm đau càng âm ỉ. Tôi muốn ghi lại
những gì đã xảy ra, nhưng đă bao
nhiêu lần ngồi trước keyboard mà chẳng viết
được ǵ. Đánh được vài ba chữ, cổ
họng thấy mặn đắng.
Cho đến bây giờ, lịch
sử đă mở ra: trong khi đồng minh bỏ chạy,
súng đạn của ta cạn dần, bọn VC lại
bán nước để lấy thêm vũ khí. Vết
đau tuy thuyên giảm v́ có lư do xoa dịu mặc cảm
người thua trận, tuy nhiên nó vẫn không lành hẳn.
Đôi lúc tôi lẩm cẩm nghĩ
rằng: phải chi quân dân miền nam bán Hoàng Sa và Trường
Sa cho “Đế Quốc Mỹ,” th́ kẻ được
giải phóng phải là miền bắc chứ không phải
miền nam. Dù sao “Đế Quốc Mỹ” cũng không
đến nỗi giết hại ngư dân ḿnh nếu họ
đi lạc vào những ḥn đảo này, nghĩ tiếc
thay!!!
Mỗi người một
câu chuyện, nhưng cùng một niềm đau...
-----
Ngày 10 tháng
3 năm 1975, chỉ trong một đêm, Ban Mê Thuột mất
vào tay việt cộng. Những người lính trấn thủ
miền cao nguyên lại phải vất vả đánh đuổi
quân thù để chiếm lại vùng đất đă mất.
Trung Đoàn
44 và 45 thuộc Sư Đoàn 23 bộ binh được
di chuyển cấp tốc từ Pleiku về Ban Mê Thuột
để giải cứu bản doanh của họ. Chiến
trường tây nguyên bùng nổ lớn, tuy nhiên, đối
với những người lính tác chiến, chuyện đánh
giặc là chuyện xảy ra hàng ngày, suốt bao nhiêu
năm trời, chiến tranh có bao giờ ngừng đâu mà
phải hốt hoảng, giặc tới th́ ta đánh thế
thôi.
Mặt trận
Ban Mê Thuột hứa hẹn gay go, những người
lính Sư Đoàn 23 và Biệt Động Quân sẵn
sàng tiến vào chiếm lại thành phố này. Nhưng rồi
một cái lệnh quái đản từ Quân Đoàn 2 ban ra: “Pleiku
di tản chiến thuật.”
Ô lạ
chưa, Pleiku có bị đánh đâu mà phải di tản? Chẳng
lẽ chỉ v́ một vài trái đạn pháo kích mà cả một
Quân Đoàn lại bỏ chạy?
Cũng v́
cái lệnh quái đản đó mà hàng trăm ngàn quân dân nhốn
nháo đổ xô về Qui Nhơn, Tuy Ḥa và Nha Trang. Cuộc
hành tŕnh đă gây nên bao nỗi đau thương và uất
hận cho mọi người. Chiến tranh quả thật
là tàn khốc. Hàng vạn người tranh nhau để t́m
đường sống, đă gây nên bao cảnh tượng
tang thương mà lần đầu tiên trong đời tôi
nh́n thấy. Tôi không thể tưởng tượng được
mạng người sao lại rẻ mạt như đám bèo
trôi giữa gịng sông!
-----
Cũng
như những đơn vị khác của Sư Đoàn 6
Không Quân, Phi Đoàn Trực Thăng 229 của tôi được
lệnh di tản về Nha Trang.
Pleiku, thành
phố buồn nằm trên cao nguyên, xứ của lính và những
người liên hệ đến lính. “Đi dăm bước
trở về chốn cũ”, bài thơ được phổ
nhạc đă diễn tả chính xác cái phố núi này. Ngày
thuyên chuyển ra đây, tôi cứ tưởng rằng
đă đến một nơi tận cùng bằng số,
nhưng không ngờ trong những giây phút cuối cùng tại
đây, từ trên cao độ một ngàn bộ nh́n xuống,
một niềm cảm xúc lưu luyến dạt dào dâng lên mà
chính tôi cũng không ngờ nó đă làm mắt ḿnh ươn
ướt. Tôi có linh cảm là sẽ không c̣n dịp trở
về nơi nắng bụi mưa bùn, nơi của những
con người v́ chiến tranh gặp nhau ở đây. Một
năm qua, chỉ ở đây mới có một năm thôi mà
cảm t́nh của tôi đối với cái thành phố cao
nguyên này đă nẩy nở một cách sâu đậm. Pleiku
thân thương, thành phố mang nhiều kỷ niệm những
ngày cuối cùng trong cuộc đời binh nghiệp của
tôi.
Đơn vị
của tôi về đến Nha Trang, nhưng vì căn
cứ này quá chật hẹp, nên một tuần
sau lại có lệnh di chuyển xuống Phan Rang. Ngày rời
Pleiku, tôi đă cố gắng đem được hầu
hết vật dụng về Nha Trang, nhưng ngày rời
Nha Trang xuống Phan Rang tôi đành bỏ lại tất cả
những bàn ghế bằng gỗ quư đă tậu
được ở Pleiku. Tiếc lắm, nhưng làm thế
nào được, vả lại của cải là vật
ngoại thân, bỏ đi để cho nhẹ gánh, ḿnh c̣n
nhiều việc quan trọng hơn phải lo.
Phan Rang, quê
hương của Tổng Thống Thiệu. Một thành
phố hiền ḥa nằm cạnh bờ biển. Phi trường
Phan Rang rộng lớn. Sau vài ngày sống tạm trong một
cư xá chật hẹp, chúng tôi được cấp phát cho
một cư xá khang trang hơn. Sau khi rời Pleiku, đây
là lần đầu tiên chúng tôi có được một chỗ
ở riêng biệt, chả bù cho những ngày c̣n ở Nha
Trang, tất cả nhân viên Phi Đoàn 229 đều sống
lăn lóc với những tiện nghi rất eo hẹp. Mọi
người hăm hở sửa soạn chỗ ở và chấp
nhận Phan Rang làm quê hương mới cho ḿnh...
-----
T́nh h́nh chiến
sự từ các mặt trận thay đổi nhanh chóng. Những
thành phố từ Quảng Trị trở vào lần lần
mất vào tay quân địch. Nói đúng ra là tất cả
những đơn vị chiến đấu đều
được lệnh rút lui một cách vội vã trong
khi địch quân chưa tới. Hơn nữa, có nhiều
thành phố việt cộng không có ư định tấn công,
ḿnh lại tự động rút lui bỏ ngỏ.
Tôi là một
người lính chuyên nghiệp, mặc dù với một cấp
bậc nhỏ bé, nhiệm vụ của tôi chỉ biết
thi hành mệnh lệnh chứ không có nhiều thắc mắc.
Nhưng v́ cứ lui binh măi, ḷng tự ái của người
lính tác chiến bị xúc phạm. Sự tức tối v́ cứ
phải lui binh, cộng với những h́nh ảnh đau thương
của người di tản đă nhiều lúc làm tôi
như một người điên. Hôm Đại, người
cơ phi của tôi bị thương v́ việt cộng bắn
trong lúc đang cứu người di tản, việc này làm
tôi không c̣n b́nh tĩnh nữa. Tôi đă xách khẩu súng lục
P38 định bắn vào ổ khóa của nhà tắm khi về
đến căn cứ. Nhà tắm này nằm trong cư xá
của một số nhân viên cơ hửu đóng tại
Phan Rang. Họ đă khóa cửa nhà tắm lại chỉ v́
sợ không c̣n đủ nước khi đơn vị của
tôi đến chia xẻ. Đứng trước cửa
nhà tắm, tôi giận dữ chửi thề:
“ Đ..M. tại
sao lại đóng cửa? Có người nào mở ra không?”
Tôi la lớn
để mọi người đều nghe. Rất nhiều
binh sĩ trong cư xá đó theo dơi hành động của
tôi nhưng tất cả đều im lặng. Tôi tức tối
nói lớn hơn:
“ Được
rồi, nếu không ai mở ra, th́ tôi sẽ mở.”
Quay vào trong
cư xá, tôi lấy khẩu súng lục P38 trở ra. Lần
này với một giọng hằn học hơn tôi cảnh
cáo:
“ Đ.M có thằng
nào chịu mở không?”
Nhiều cặp
mắt nh́n tôi chầm chầm, nhưng tất cả vẫn
hoàn toàn im lặng. Tôi dí họng súng vào ngay ổ khóa định
bóp c̣, th́ th́nh ĺnh có người vội vă lên tiếng:
“ Anh đừng
có bắn, để tôi mở, tại mấy thằng kia
nó khóa lại đó.”
Thế rồi
anh này vội vă mở cửa nhà tắm ra sau khi đổ
thừa là tại một vài người nào đó ích kỷ
khóa lại. Lúc đó, tôi thật sự rất cần những
gầu nước thật lạnh để gột rửa
những tức tối trong ḷng ḿnh. Di tản, chết chóc,
khổ đau, đói khát.v.v...và sau cùng là đồng đội
của tôi đă đổ máu, tôi đă không c̣n là tôi nữa...
-----
Sau Pleiku, Ban
Mê Thuột, rồi đến Quân Đoàn 1 vội vă rút lui.
Bây giờ cái lệnh di tản chiến thuật quái đản
này thật sự gây hoang mang cho cả mọi
người. Làn sóng người hớt hải xuôi nam
như một bệnh dịch lan truyền nhanh chóng. Dân và
quân không c̣n niềm tin vào lệnh lạc nữa. Theo tôi
nghĩ, mọi người chỉ sợ ḿnh là kẻ bị
bỏ rơi, chứ không hẳn là sợ đánh với việt
cộng.
Tôi cứ
tưởng là lệnh sẽ cho dừng lại tại
đây để đánh một trận sống chết với
quân thù, nhưng rồi, Qui Nhơn lại được lệnh
di tản! Để rồi kể từ đó, Khánh
Dương, Tuy Ḥa, Nha Trang sụp đổ theo làn sóng người
bỏ chạy, trong khi đó Bảo Lộc lại bị
áp lực nặng nề và Đà Lạt không c̣n quân bảo
vệ. Tất cả mọi người đều lo di tản
về Sài G̣n. Lòng quân và dân hoàn toàn rối
loạn. Tin chiến sự thay đổi từng giờ từng
phút, ai cũng lo lắng cho gia đình bị bỏ
rơi. Phi trường Phan Rang chỉ c̣n lại những
quân nhân thật sự cần thiết để tác chiến.
Tất cả gia đ́nh binh sĩ và những phần sở
không trực tiếp chiến đấu đều di tản
về Sài G̣n. Chiến tranh đă thật sự hiện ra
rơ ràng nơi tôi vừa định cư mà thoạt đầu
tôi cứ tưởng sẽ là quê hương lâu dài của
đơn vị.
Trong một
đêm của những ngày cuối cùng tại Phan Rang, tôi
đă thao thức và hồi hộp suốt đêm. Tôi sợ
rằng, đến sáng hôm sau Đà Lạt sẽ bị mất.
Tôi sợ gia đ́nh chị tôi và mấy đứa em đang
sống tại thành phố này phải chịu cảnh lầm
than như những người di tản trên liên tỉnh lộ
7. Tôi không theo đạo Chúa hay Phật, nhưng tôi đă
cám ơn Chúa Phật rất nhiều v́ đến ngày hôm
sau, Đà Lạt vẫn chưa lọt vào tay việt
cộng. Nhờ chuyến bay của một đơn vị
bạn, tôi lên Đà Lạt ngày hôm đó, với ý định:
đuổi gia đ́nh bà chị về Sài G̣n bằng mọi
giá. Tôi sợ rằng bà chị của tôi không chịu
đi v́ tiếc rẻ cái tài sản to lớn mà vợ chồng
bà khổ công tạo dựng. Tôi sợ lắm v́ cảnh
đau thương của những người di tản đă
hằn sâu vào đầu tôi trong mấy tuần qua. Càng sợ
hơn nữa, trước đó vài ngày, lợi dụng một
phi vụ lấy tàu từ Nha Trang về Phan Rang, tôi đă
lén bay lên Đà Lạt và đáp trên nóc nhà bà chị để
báo tin di tản. Cứ tưởng rằng
bà chị của tôi hiểu được
sự khẩn cấp mà về Sài Gòn, nhưng
không ngờ mấy ngày sau, tôi được tin cả
gia đ́nh bà ấy vẫn còn ở tại Đà Lạt,
chẳng ai đi đâu hết...
Vừa xuống
phi trường Cam Ly, tôi tức tốc đến ngay nhà
bà chị với quyết định: nếu chị ấy
tiếc rẻ cái ǵ th́ tôi sẽ rút súng bắn bỏ cái
đó. May mắn thay, ngày hôm đó cũng là ngày bà ấy rời
Đà Lạt. C̣n lại một người em gái, tôi định
đem em về Phan Rang để tìm phương
tiện di chuyển, nhưng khi ra đến phi
trường Cam Ly, gặp một chuyến C-130 chở
người di tản, tôi đã gửi em về
thẳng Sài Gòn. Nh́n chiếc C-130 nặng nề
cất cánh mang theo người em của ḿnh, tâm tư tôi cảm
thấy nhẹ nhơm. Nhẹ gánh lo gia đ́nh, tôi yên tâm trở
về Phan Rang và tự nhủ rằng, dù có phải tử
thủ đến giờ phút cuối cùng, tôi cũng không sợ.
Sau cùng, việc
đáp phi cơ trên nóc nhà bà chị, đă làm cho chị
tôi gặp nhiều rắc rối sau khi việt cộng lên
nắm chính quyền. Thật ra tôi cũng không muốn làm vậy,
nhưng đâu c̣n cách nào khác, bởi v́ t́nh h́nh lúc
đó rất hỗn loạn, phương tiện truyền
thông rất giới hạn, trong khi chiến sự lại thay
đổi từng giờ từng phút !
-----
Rồi th́ việc
phải đến đă đến, sau khi Khánh Dương
mất vào tay việt cộng, Nha Trang bỏ ngỏ, bây giờ
Phan Rang là tiền đồn của cuộc chiến. Trung
Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi được cử ra từ
Sài G̣n cùng Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang Tư Lệnh
Sư Đoàn 6 Không Quân là hai người chỉ huy bộ
tư lệnh tiền phương chống giữ Phan
Rang.
Thành phần
chống giữ phi trường Phan Rang gồm có Địa
Phương Quân, Sư Đoàn 2 Bộ Binh, Biệt Động
Quân. Nhưng thành phần chủ lực thật sự chỉ
có Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù. Những đơn vị khác
chỉ là những đơn vị được tập
họp lại một cách vội vă sau khi di tản từ
những nơi khác về.
Không khí chiến
tranh càng lúc càng nặng nề. Mọi người chỉ
mong rằng ḿnh có thể giữ vững phi trường
Phan Rang hầu cản bước tiến của địch
quân. Những tin đồn như là: “Ông Thiệu sẽ không
bỏ quê hương của ông ta” đă được nhiều
người nhắc nhở hầu lấy đó làm niềm
tin để sống chết với quân thù.
Phi trường
Phan Rang vắng lặng, không một hàng quán mở cửa,
không một bóng dáng của gia đ́nh binh sĩ, không khí chiến
tranh bao trùm lên mọi cảnh vật. Lác đác một vài
chiếc xe cam nhông hối hả chạy qua, một vài binh
sĩ g̣ lưng trên chiếc Honda trong trạng thái vội
vă. T́nh trạng tiếp liệu cho Phan Rang càng ngày càng eo hẹp.
Những đàn ḅ nuôi trong phi trường lần lượt
bị giết để làm lương thực cho quân
đồn trú. T́nh trạng giết ḅ này lại không
được tổ chức một cách hiệu quả,
cho nên nhiều con ḅ bị giết một cách dư thừa,
những con c̣n lại sợ hăi bỏ chạy tán loạn mỗi
khi thấy bóng dáng của người. Tôi đă chứng kiến
một con bị giết ngay trước cư xá ḿnh, trong
tích tắc, cả một con ḅ to lớn chỉ c̣n lại
một đống xương và một vũng máu bầy
hầy, mùi hôi thối nồng nặc xông lên trong cái nóng hừng
hực của Phan Rang đă làm mọi người lo lắng.
Trong nhiều
tuần liên tục, chúng tôi sống nương tựa vào gạo
sấy thịt hộp, không có đồ ăn tươi. Một
vài cái mương trồng rau muống quanh khu gia binh đă
bị ngắt ăn hết, ban đầu c̣n ăn lá, sau
đó những cọng già cũng bị ngắt ăn luôn.
Vào một
buổi ăn với lương khô, tôi vất vả nuốt
từng miếng cơm gạo sấy, người xạ
thủ của tôi móc trong túi áo bay ra một trái cà chua
đưa cho tôi:
“Ông thầy, tôi
có cái này nè”
Tôi sáng mắt
lên cầm lấy quả cà chua non nhỏ xíu, không do dự,
bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến. Thú thật là tôi
chưa bao giờ ăn một trái cà mà ngon như vậy.
Sau khi nuốt mất trái cà quý báu đó, tôi bèn hỏi:
“ Ở đâu mà
có vậy?”
“ Ở trong khu
gia binh đó ông ơi. Tôi t́m thấy một luống cà,
nhưng tất cả đều c̣n non.”
“ Bây giờ c̣n
không?” Tôi hỏi.
“ Không biết nữa,
Ngày hôm qua tôi thấy có mấy người đến hái.”
Sau khi ăn
xong, tôi vội vă xách Honda chở Một, tên của người
xạ thủ, trở lại khu gia binh kiếm thêm. Khi
đến nơi, tất cả những trái cà dù lớn
hay bé đều không c̣n. Cả hai chúng tôi chỉ đành hái
lá cà về nấu canh. Ngày hôm sau, tôi và Một trở lại
lần nữa, nhưng lần này cả hai đều thất
vọng, bởi v́ cả luống cà đều trụi lủi,
một cái lá cũng không còn.
V́ ăn uống
không có chất tươi, tôi đă bị nổi một
cái nhọt to tướng ở ngay thắt lưng. Trong lúc
t́nh h́nh nguy ngập như vậy, cái nhọt trên lưng quả
là một điều đáng ngại. Đứng không thẳng,
chạy không được, đă làm tôi lo lắng. Tuy
nhiên, Một mới chính là người lo lắng
nhiều hơn về cái nhọt của tôi. Một đă
trông chờ từng giờ từng phút để ra tay tận
diệt cái nhọt ấy. Ngày mà trên đỉnh cái nhọt
vừa có một đốm trắng nhỏ xíu, là ngay lập
tức, Một bắt tôi ngồi lên ghế với lưng
quay về phía trước. Hắn ta đă xử dụng
hết mười thành công lực để ép cho bằng
được cái cùi nhọt ra. Tôi cắn răng chịu
đựng sự đau đớn với hai hàng nước
mắt tuôn rơi. Xong việc, tôi cảm thấy nhẹ nhơm
như không c̣n cục đá ngàn cân đè ngang thắt
lưng. Vận động chân tay để đo lường
sự b́nh phục của ḿnh, nh́n nét mặt lo lắng của
Một, tôi cười nói:
“Chắc
được rồi, không c̣n thấy khó chịu nữa.”
Nét mặt của
Một lộ vẻ vui mừng:
“Ông thầy mà chạy
không được th́ phiền lắm đó.”
Một là
người cùng quê, học cùng trường với
tôi và sau tôi hai lớp. Không ngờ hai đứa lại
gặp nhau ở một cái xứ cao nguyên xa lắc xa
lơ, để rồi với t́nh chiến hữu,
nghĩa đồng hương, hai chúng tôi đă cùng sống
chết bên nhau trong những giờ phút cuối cùng của
cuộc chiến.
-----
Đă mấy
ngày liên tục, tụi việt cộng cứ pháo kích ra rả
vào phi trường, mọi người đều sống
trong t́nh trạng cảnh giác. Sáng sớm ngày 16 tháng 4 năm
1975, đạn pháo của địch càng lúc càng dồn dập.
Tất cả nhân viên của Phi Đoàn 229 đều túc trực
ứng chiến tại phi cơ của ḿnh.
Bầu trời
ngày hôm đó quang đãng, có thể nh́n xa đến
mười cây số. Ngay từ 7 giờ sáng, tiếng súng
đạn đă vang dội từ xa. Địch quân
đang dàn quân tiến chiếm phi trường. Mấy ngày
hôm trước ba chiếc khu trục A1 biệt phái từ
Sài G̣n ra yểm trợ Phan Rang, hôm nay chỉ c̣n lại hai,
một chiếc đă anh dũng hy sinh trong trận chiến
ngày hôm qua. Hai chiếc c̣n lại đang quần thảo với
địch quân trên bầu trời hướng đông bắc.
Tôi say sưa nh́n từng chiếc A1 nghiêng cánh sà xuống
như những con đại bàng đang bắt mồi, rồi
từng chiếc lại chậm răi ngóc lên, theo sau là một
cột khói dựng lên và sau cùng một tiếng nổ vang rền rung
chuyển mặt đất.
Cùng lúc hai
chiếc A1 đánh bom, bốn chiếc trực thăng vơ
trang của Phi Đoàn 229 và Phi Đoàn 235 thay phiên nhau nhả
từng loạt đạn và rocket ngăn chận sự tiến
quân của việt cộng. Tiếng rống vang lên từ
mấy khẩu mini gun của trực thăng vơ trang càng lúc
nghe càng gần. Khi vỏ đạn từ những khẩu
súng này rớt trên phi đạo tạo thành những tiếng
kêu rổn rảng th́ th́nh ĺnh tôi nghe một âm thanh x́ xèo xé
gió. Kinh nghiệm chiến trường cho biết là một
trái đạn pháo kích của địch đang rớt vào
vị trí của tôi. Mọi người nhanh nhẹn nằm
xuống để tránh sự tàn phá. Một tiếng nổ
long trời cách tôi chừng ba mươi
thước, quả đạn này trúng vào ụ đổ
xăng của trực thăng, đồng thời
làm cho Tuấn, người Trưởng Phi Cơ của
chiếc trực thăng đậu trước mặt tôi
bị thương nặng.
Cũng xin
nói qua một ít
về người phi công với nhiều
đặc điểm khác người này:
Th/Úy Nguyễn Bửu Tuấn.
Tuấn là đàn em của tôi ở quân
trường Thủ Đức, nhưng là
đàn anh của tôi ở trường bay.
Cả hai chúng tôi phục vụ cùng một
đơn vị ở Cần Thơ khi về
nước và cùng đổi ra Phi Đoàn
229 Pleiku năm 1974.
Hắn
ta rất đẹp trai, trắng trẻo như con
gái, ăn nói nhỏ nhẹ nên nhiều
người tưởng Tuấn là một
người nhút nhát. Lầm, ngược
lại Tuấn là một hoa tiêu rất bình
tĩnh và lỳ lợm.
Năm 1971, trong
lúc Phi Đoàn 219 chuyển sang bay UH, tôi và
Tuấn biệt phái thay thế đơn vị
này để đổ Lôi Hổ ở Lộc Ninh.
Tuấn là Hoa Tiêu Chánh, tôi là Hoa Tiêu Phó. Mặc
dù mặt mũi non choẹt, nhưng Th/Úy
Tuấn đã chứng tỏ đầy đủ
bản lãnh với phi công của hai chiếc
trực thăng Cobra khi những chiến sĩ
đồng minh này yểm trợ chúng tôi vào
tận mật khu việt cộng ở tỉnh Kratie bên
xứ Chùa Tháp. Mặc dù có
tài, nhưng cuộc đời binh nghiệp
của Tuấn không may mắn: từ ngày
về nước mang lon Th/Úy, cho đến tàn
cuộc chiến, Th/Úy Tuấn vẫn là Th/Úy
Tuấn, không lên một cấp nào cả!
Đối
với Tuấn, súng đạn không phải là
thứ làm hắn ta hoảng hốt. Trong lúc mọi
người t́m chỗ trú ẩn v́ đạn pháo kích của
địch, hắn ta vẫn b́nh thản ngồi khảy
đàn trên sàn phi cơ của ḿnh, chỉ tiếc
rằng, lần này súng đạn không
tránh hắn nữa!
Sau tiếng nổ kinh hồn và lửa bốc
lên vì trúng ụ xăng, tiếng ồn ào
phát ra từ phi cơ của Tuấn, một
mảnh đạn pháo kích đã đâm
vào lưng làm Tuấn gục xuống, máu tuôn
ra ướt đẫm áo bay. Cây đàn đã
rời tay Tuấn nằm nghiêng ngửa trên
mặt đất...Vì vết thương của
Tuấn quá nặng, Tr/Úy Xủi, người Trưởng
Phi Cơ của chiếc trực thăng đậu bên
cạnh vội vă cất cánh mang Tuấn về Phan Thiết
cứu cấp...
Cũng may,
người hoa tiêu tài hoa, lỳ lợm, nhưng
thiếu may mắn này chỉ gục một
lần, không chết, vẫn đứng dậy hiên
ngang cất tiếng hát: “Anh không chết đâu em, anh
chỉ vừa ngủ gục đêm qua...” Sau cuộc
chiến, Th/Úy Tuấn một lần nữa
thoát khỏi ngục tù cộng sản và
định cư ở cái xứ “Down Under,”
để rồi trong lúc trà dư tửu
hậu, chàng có dịp kể lại những oai
hùng đời lính cho con cháu mình nghe:
chuyện của Tuấn, một chàng trai
nước Việt...
Sau khi trái
đạn làm cháy ụ đổ xăng,
địch quân càng pháo kích nhiều hơn. Súng
đạn nổ vang trời, địch quân quá đông và tràn
ngập phi trường. Những con chim sắt của Phi
Đoàn 229 đành đoạn ĺa tổ để tránh xa vùng lửa đạn.
Phan Rang
đă mất!
Tôi bàng hoàng!
Vẫn không
tin là sự thật!
Tôi nghĩ là ḿnh có thể giữ được Phan
Rang, nhưng tôi đă lầm, trận chiến đă quyết
định kể từ khi cái lệnh di tản chiến
thuật quái đản ban ra! Một cái lệnh đă làm
tan rã ư chí chiến đấu của những người
lính Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa !!!
Tôi không hèn
đến nỗi phải bỏ chạy.
Đồng
đội của tôi cũng không hèn đến nỗi phải
bỏ chạỵ
Chiến tranh
đă bao nhiêu năm rồi, người lính miền nam có bỏ
chạy đâu? Tại sao bỗng dưng lại bỏ chạy?
Tới bây
giờ tôi vẫn không có câu trả lời một cách xác
đáng. Tuy nhiên tôi biết là những người lính
như tôi không hèn nhát buông súng trước kẻ thù. Bằng
chứng:
Trong một
chuyến bốc quân và dân di tản từ Ban Mê Thuột về
Khánh Dương, tôi đă chửi thề khi thấy một
Ông Đại úy Biệt Động Quân trong đó:
“Đ.M mấy
cha đánh giặc ǵ mà cứ bỏ chạy?”
Tôi đă gặp
phải phản ứng giận dữ của Ông Đại
Úy này:
“Đ.M tụi
này đang chiếm lại Ban Mê Thuột th́ có lệnh rút
lui”
Lúc đó tôi
ngạc nhiên, linh cảm một việc trọng đại
sắp xảy ra. Nhưng sau đó tôi mới hiểu
được những uất hận của một
người lính cầm súng mà không được quyền chống
trả. Tôi nợ một lời xin lỗi với Ông Đại
Úy Biệt Động Quân này.
Than ôi!
Vận
nước bấp bênh từ đây!
Mùa quốc hận 2011
Lạc
Long Huỳnh Quốc Phú
(Hiền nội edit.)