Những Cây Cầu Trong Ước
Mơ…
Thầy Nguyễn
Văn Sâm
Tôi chạm
mặt Sáu Huê ở sân sau của Sở khi còn
đương lum khum khóa cái xe đạp cà tàng nhưng
cũng có thể bị thổi mất của mình. Tới
để nói về chuyện lương hướng
chậm trễ cả ba tháng nay ấy mà! Tiền túi
cắp ca cắp củm lâu nay đã cạn, tiền vay
mượn đầu nầy đầu nọ đã
bắt đầu khó khăn, bị nhẹ nhàng từ
chối ở nhiều mối rồi. Tính lên đây xoay
đở ai đó chút đỉnh sống qua ngày chờ
Sở nhận được tiền từ trên rót về
rồi mới tính tiếp.
Giữa đám cô thầy
đồng cảnh đương lao nhao xầm xì, tôi
được Sáu Huê kéo vai, bộ như thân thiết
lắm, nói nhỏ: ‘Chút xíu nữa anh Khâm có huởn huởn
lên văn phòng tôi, mình bàn chút việc’. Khi nói Sáu Huê kê
miệng hô bịt răng vàng của anh gần sát mặt
tôi, mùi nước phở nhiều hồi và mùi hành Tây
sống còn thoảng bay, khiến tôi khó chịu, cây tăm
anh ngậm nơi khóe miệng khi nói như có chưn tay
đánh đu qua lại từ mép nầy tới mép kia
của hai tảng môi đen làm tôi ớn ớn xương
sống. Hình như những người gốc ở
trỏng ra hay ở bển về, đều thích ngậm
tăm sau khi ăn sáng, và có tài vặt về chuyện làm
xiệc với cây tăm trên miệng!
Tôi né mặt ra chút
đỉnh, ậm ờ.
Trước khi về, tôi
tạt vô phòng Sáu Huê thì anh ta không có mặt, người phó
phòng nào đó trao lại cho tôi một phong thơ mỏng,
có đóng dấu Khẩn & Mật. Tưởng gì, té ra
là quyết định cử đi dạy lớp Bình Dân
Học Vụ, xóa nạn mù chữ ở xã Mỹ Tú mỗi
tuần ba tối cho tới khi có quyết định
mới.
Tôi bỏ bàn toán vô
đầu khi đọc quyết định. Mỗi
tuần dạy 3 tối, từ 6 giờ tới tám giờ
rưỡi thì về tới nhà xấp xỉ 10 giờ khuya
cha nó rồi. Tối mịt, chỉ còn lăn đùn ra
ngủ chớ nghỉ ngơi mẹ gì nữa! Thêm từ
nhà tôi tới trường, qua khỏi Xóm Giữa một
đổi khá xa, tuốt ở trong ngọn, thì cũng ngót
nghét cả chục cây số ngàn, chắc như bắp
bận về sẽ không còn chiếc xe ôm nào. Phải
đạp xe đạp đi đi về về thôi.
Vậy thì còn khổ dài dài cho chưn cẳng, cho bàn tọa
trơ xương teo thịt lâu nay!
Hoặc là bỏ dạy
hoặc là ép xác. Bỏ dạy thì phải đối phó
với rất nhiều chuyện, từ chuyện hộ
khẩu tới chuyện hồi hương, chuyện mua
nhu yếu phẩm, ôi hằm bà lằng xắn cấu
đủ thứ trong đó có chuyện ba tôi là nguỵ
quân, đương đi học tập nhưng ông còn
đứng tên căn nhà vợ chồng con cái tôi
đương ở, tôi có thể bị đuổi ra
bất cứ lúc nào. Thôi, trời sanh thì trời
dưỡng, chịu khó hành xác đi dạy thí mấy tháng
coi sao. Dạy nít nhỏ 6, 7 năm nay cũng quen quá
rồi, đâu thử dạy người lớn coi khác
giống gì!
o o O o o
Khâm bước vô lớp, gần
ba mươi học trò già phần lớn đã ngồi
sẵn sàng đâu vô đó rồi. Nhiều người
tằng hắng để lấy lại bình tĩnh,
mấy ông xồn xồn ở cuối lớp ghiền
thuốc kinh niên cũng lật đật dụi sau khi hít
dài hơi chót, giữ tàn trong một tấm giấy
nhựt trình nho nhỏ, xếp cẩn thận bỏ vô túi
rồi mới chịu ngồi xuống len lén ngó thầy
để đánh giá.
Khâm chào cả lớp, nói
lên vài câu than thở là mình sẽ đạp xe tới
đạp xe về, cực nhọc lắm, xin các cô các bác
chăm học giùm. Đừng nói là mình già học nay quên
mai, đừng nói là hồi nào tới giờ quen cầm
cuốc, cầm dao bây giờ cầm viết thì khó khăn,
lọng cọng. Khâm thao thao về ước mơ
được làm thầy của mình lúc nhỏ, giờ xin
cô bác nên có ước mơ đọc được báo chí
sách vỡ để biết những chuyện xảy ra
trên thế giới chung quanh. Có ước mơ, có
quyết tâm, có sự nhứt định làm cho
được thì sẽ được thôi. Chuyện gì
cũng phải học mới biết. Anh nói như
diễn thuyết: Điều khó không phải là học,
cũng không phải là tìm thời giờ rảnh rang
để học, điều khó là thắng sự chần
chờ, can đãm bước qua sự cù nhầy của
chính mình để hăng hái học.
Có tiếng của một
bà ứng lên, không cần phép tắc gì:
‘Thầy nói coi bộ
dễ ợt mà tui thấy khó dàng mây. Tui tính đi học
lớp nầy năm ba bận rồi mà bận nào thì
cũng như có ông bà khuất mày khuất mặt cản
lái cản mũi biểu đừng. Lúc thì có bầu
đứa lớn, lúc thì mang bì con nhỏ kế, lúc thì
thằng Tư còn đỏ hỏn, lúc thì ông nhà tui bịnh
rề rề… rồi bây giờ đây hai con heo
đương độ lớn phải lo kiếm món
ăn cho chúng nó, nội cái vụ xắt chuối với
trộn cám không cũng đủ hết ngày giờ. Còn lo
đi làm rẫy nữa, bỏ lún sao được! Ông tui
hồi sanh tiền, có ghi tên mà học trậm trầy
trậm trật, thuộc được bao nhiêu chữ
đâu, không đầy lá mít, nhom nhem ba chữ rồi
cũng quên tuốt…’
Khâm mỉm cười,
ngoại giao:
‘Nhín giờ chỗ nầy
chút đỉnh, kéo giờ chỗ kia chút xíu thì sẽ có
thời gian học thôi bác à! Như ông bà mình nói: khéo ăn
thì no, khéo co thì ấm, mình khéo hà tiện thời giờ
của các công chuyện phải làm thì té thời giờ cho
chuyện mình muốn làm.’
Khâm vừa nói vừa
đưa tay lấy viên phấn, quay mặt vô bảng:
‘Lớp nầy bà con đã
biết viết biết đọc chút đỉnh rồi
thì mình học ý nghĩa trong sách vỡ, chỉ tập
viết để chữ được đẹp thôi,
không có tập đánh vần nên cũng gọn, mình sẽ
học những điều có ích lợi cho cuộc
sống…’
Anh chỉ vô một ông
ngồi tuốt gần vách, nảy giờ coi bộ lao
chao, nhờ đọc câu anh vừa viết.
‘Mấy đời bánh
đúc có xương, mấy đời dì ghẻ có
thương con chồng.’ Chú Tám He đọc coi bộ
hơi suông suông rồi, không cần ai đốt pháo sau lưng
cũng bình luận lớn giọng: ‘Đúng quá rồi, bánh
đúc mềm, sao có xương được. Còn má
ghẻ thì ối thôi, nói bắt mệt, trăm
người như một, ghét con chồng thậm tệ,
hành hạ tụi nó thấy mà phát thương luôn. Xóm Láng
The của mình đây nè, tui không cần nói tên ai nhưng bà
con đều biết là có ba bốn bà mẹ ghẻ hành
hạ con chồng thiếu điều muốn giết cho
tụi nó chết.’
Lớp hơi ồn ào,
mấy bà phản đối, mấy ông được
dịp cười phá, châm chọc. Khâm đưa tay ra
dấu im lặng:
‘Tôi đưa ra câu nầy
là có mục đích. Ca dao tục ngữ là mấy câu nói
của ông bà mình truyền qua từ bao nhiêu đời
trước, do nhận xét từ kinh nghiệm đời
sống chung quanh họ, điều đúng do đó thì
nhiều, nhưng điều sai không phải không có. Mẹ
ghẻ thương con chồng thiếu giống gì ở
đời nầy. Nít nhỏ không có mẹ ruột, không ai săn
sóc, ta thương không hết, sao lại hành hạ nó, sao
lại đành tâm ghét bỏ nó. Mà Trời sanh mỗi
người mỗi tánh, có người ghét con ghẻ thì
cũng có bà thương con chồng. Sao lại quơ
đủa cả nắm, sao lại trói hết cả
bầy bỏ vô một giỏ… Khi ta ghét trẻ con là ta nhỏ
mọn, hẹp hòi.’
Bên góc mặt một thanh
niên chừng 17, 18 tuổi chồm lên bàn giơ tay thiệt
cao, phấn khởi, Khâm cho cậu ta nói:
‘Con tên Tèo. Hai Tèo. Xin nói.
Người ty tiện là người xấu xa. Má con không
sanh ra con nhưng có ghét con đâu. Con cũng được
cưng như bao nhiêu con ruột của những nhà chung
quanh. Hoan hô Má Ba! Hoan hô! ’ Thằng Tèo vừa hoan hô vừa
chỉ vô người đàn bà than không có thời giờ
hồi nảy…
Cả lớp vỗ tay
rần rần… Khâm nhấn mạnh về sự sai lầm
của ca dao tục ngữ chẳng hạn như câu áo
mặc sao qua khỏi đầu. Con cái có thể khôn hơn
cha mẹ chứ sao không, đời bây giờ người
ta được đi học, được đọc
báo xem sách nên kiến thức mở mang nhiều, khôn hơn
cha mẹ là lẽ bình thường thôi. Còn nữa,
chẳng hạn như câu: Con vua thì lại làm vua. Con sãi
ở chùa lại quét lá đa. Đâu chắc là đúng. Con
cháu vua đi xe lôi, chạy xe ôm cũng chật
đường. Trẻ con lúc nhỏ sống trong chùa, trong
Cô Nhi Viện, sau ra đời thành công đâu phải là
hiếm…
Khâm mừng là buổi
học đầu tiên vui vẻ, thuận lợi. Lớp
học kết thúc trong nét mặt luyến tiếc thời
giờ qua mau của từng người.
o o O o o
Bữa hôm đó lớp tan mà hai
mẹ con Bác Ba và thằng Tèo cứ lẩn xẩn theo Khâm
hoài. Họ cứ nháy nhó nhau, đùn đẩy qua lại,
như là muốn nói gì đó với Khâm. Cuối cùng Bác Ba
nói:
‘Không nói dấu gì thầy.
Mẹ con tôi trước khi vô lớp có ghé chợ mua sáu cái
hột vịt Bắc Thảo tính về ngày mai cả gia
đình ăn mừng mới mua được bốn con
heo con, xin kiếng cho thầy 2 cái để tỏ lòng
biết ơn thầy cực khổ chỉ dạy chúng
tôi.’
Khâm cảm động,
nhưng từ chối khéo:
‘Cám ơn thiếm Ba.
Thiếm giữ lại cho gia đình. Tôi xin được
không nhận vì gan tôi yếu, không dùng được
trứng vịt trứng gà. Anh nói dối thêm:
‘Thường tôi ăn ngã về chay nên dùng nhiều rau
củ, không dám dùng trứng.’
Người đàn bà
hơi ngỡ ngàng, nhưng cũng từ tốn bỏ hai
trứng vịt kia vô lại với số còn lại trong
giỏ.
Khâm vỗ vai thằng Tèo:
‘Em Tèo, Em nói với Má Ba là
không nên ăn nhiều trứng vịt Bắc Thảo. Nó
ngon vì lạ miệng nhưng rất độc hại vì
có thể họ làm theo một quy trình có tác dụng xấu
cho sức khoẻ người tiêu dùng. Đó là họ ngâm
trong nước pha Sulfit đồng để cho trứng
mau đổi màu đen và tròng trắng sớm có màu trong
suốt như rau câu.
…Sulfit đồng làm cho
trứng ăn được trong vòng nửa tháng còn bó vôi
trộn trấu theo cách thường phải mất hơn
ba tháng… Ăn nhiều trứng làm theo kiểu tốc hành
sẽ bị ung thư gan vì chất Sulfit đồng vô
cơ thể mình thì tích tụ lại chờ ngày giờ
phát tán chớ không bị thải ra….
Hai người học trò
của Khâm le lưỡi, tỏ ý hiểu.
Sẵn đà Khâm nói thêm:
‘Ông bà mình nói: Bịnh tùng
khẩu nhập nghĩa là bịnh theo thức ăn mà vô
mình con người, ăn những món tuy ngon miệng, tuy
sang trọng nhưng hoặc dơ dáy, hoặc chứa
những thành phần độc hại thì chẳng khác gì
tự tử từ từ, chẳng hạn như ăn
nhiều bột ngọt, bột nêm, nhiều
đường, nhiều muối, ăn lạp
xưởng, ăn mắm sống, ăn bánh canh giò heo có
nhiều da nhiều mỡ, ăn dưa đầu heo chua,
ăn phá lấu, lòng heo, ăn chao ăn tương quá
mặn, dùng dấm hóa học…
Thằng Tèo cười
lớn:
‘Mấy món đó trừ
tương với chao, may quá gia đình con vì nghèo chạy
ăn từng bữa nên đương nhiên đã cữ,
thầy khỏi lo.’
Khâm thấy mình hơi dài
dòng, anh kết thúc bài giảng ngoài giờ học của
mình:
‘Nói chung ăn nên chọn
món lành, món sạch hơn là món ngon miệng, món sang
trọng, mắc tiền mà cầu kỳ. Món càng ngon
miệng càng có hại cho người ăn.’
Thằng Tèo biện
luận:
‘Thầy nói vậy,
chẳng lẽ cả nước ăn những món đó
bấy lâu nay đều chết hết?’
Khâm cười hiền, từ
tốn:
‘Không chết hết,
nhưng mọi người đều bị chết
từ từ, nghĩa là giảm tuổi sống trên
đời năm bảy năm, có khi cả chục
năm. Làm cho một hai người chết liền thì
bị tội giết người nhưng làm cho nhiều
người chết từ từ vì những món ăn có
hại thì được làm giàu cho nên thiên hạ cứ vô
tư mà làm, hãnh diện mà làm…’
Thằng Tèo đưa hai
tay ra bắt tay Khâm tỏ ý tâm phục khẩu phục
thầy mình:
‘Thầy là ngôi sao chỉ
đường cho cả lớp được biết
đâu là chuyện đúng sai. Con cám ơn thầy
nhiều.’
Khâm thấy thằng Tèo
đã trưởng thành qua câu nói đó. Anh cũng cảm
thấy tội nghiệp cho những người dân ở
xã trên ngọn nầy. Họ dốt và bị bịt
mắt bấy lâu nay nên sống quờ quạng, tự
đốt bớt đời sống của mình mà không hay
biết.
o o O o o
Khâm làm tài khôn dẫn
người đồng nghiệp nữ mắt đỏ
hoe vô phòng Sáu Huê khiếu nại. Thường thì Sáu Huê
niềm nỡ, nhưng hôm nay như biết trước
chuyện hơi khó khăn anh ngồi chễm chệ sau bàn
giấy kềnh càng, mặt nghiêm nghị, lạnh lùng.
Cô giáo Trang ngồi rút
lại trong ghế coi nhỏ nhít làm sao, rụt rè thưa
gởi:
‘Thưa, nhờ anh Sáu cho em
được đổi qua xã khác dạy, chớ ở
đây có ngày bà ta giết chết em.’
Sáu Huê đổi thế
ngồi, tay chống càm, tay kia cầm cây viết bic quay quay
như giởn chơi với nó.
‘… Em Đức, con của
bà ta không chịu học, bài không thuộc, không nộp bài
cho về nhà làm, tập thì
rách nát dơ dáy… Hôm qua em Đức lại nghịch, lấy
dây cột tóc của bạn gái ngồi trước mặt,
cột vô chưn bàn. Con nhỏ vô tình đứng dậy,
đau quá, khóc. Em giận mới khẻ tay nó mấy cái mà
nó đã bỏ chạy về nhà. Má nó, bà vợ ông chủ tịch
xã xách dao bầu xắt chuối chạy vô lớp xỉa
xói em, đòi chém chết cô giáo ngụy quen thói khủng bố
con của cách mạng. Em càng cắt nghĩa thì bà càng nổi
giận giơ dao xỉa, giá vô mặt em nói là không muốn
thấy em ở xã nầy nữa. May mà có anh Hiệu Trưởng
và mấy thầy cô giáo khác can gián không thôi thì em không biết
số phận của mình ra sao.’
Sáu Huê tỉnh bơ,
cười cười:
‘Mà cô giáo ngụy có bị
sứt mẻ… chút xíu nào không cà! Thôi đừng làm cho
chuyện om xòm thêm nữa. Về dạy bình thường
đi. Tôi sẽ gọi điện nói chuyện với
chồng bà ta. Tôi cũng cho rút thằng Đức, học
trò cưng của em qua lớp khác, nhưng em Trang không
đi đâu hết. Phòng Giáo Dục Quận với nhân dân
trong Quận phải gắn bó, có đâu mà chuyện mới
có chút nị đã làm cho tầy huầy…’
Và Sáu Huê lịch sự xin
lỗi tôi ra ngoài uống nước trà ngồi chờ
để anh ta chỉ đạo việc nầy riêng
với cô Trang.
Tôi ra sân hút thuốc chờ
đợi. Tôi hơi chủ quan mới đi với Trang
vô phòng của Sáu Huê, thường mấy chuyện như
thế nầy Sở không muốn có người thứ ba
nhúng tay vô.
Mười lăm phút sau,
tôi hút tàn hai điếu thuốc, Trang bước ra ngó tôi
kín đáo lắc đầu, mặt buồn buồn. Tôi
biết là cô giáo ngụy nầy sẽ còn chịu
đựng những giông tố cô linh cảm trước
nhưng không thể làm gì được. Cũng như
số phận những người khác đương
dật dờ trên quê hương nầy thôi. ‘Người
ta’ có những cách giải quyết khác.
o o O o o
Tối Thứ Hai thằng
Tèo tới lớp với cái mặt trầy trụa băng
dán tùm lum và một cánh tay gảy bó bột treo trên cổ. Nó
cười vô tư với Khâm, miệng mở rộng
chằng hoạt:
‘Thầy đừng lo! Con
thử nhào xuống coi sông sâu hay cạn vậy mà. Sông
cạn sợt, đi bộ ở dưới còn
được, nước chỉ mới tới cần cổ
nhưng mà có nhiều cây nhọn, nhiều gạch đá
quá! Lại trơn lù bấu víu vô đâu cũng không
được!’ Nó lại cười lớn hơn.
‘Bữa đó bộ
quắc cần câu sao mà nhảy xuống cầu bắt cá?’
‘Cầu nhỏ mà cao quá
cở, chạy vừa mới lên chưa hết dốc,
thấy hai mẹ con chị nọ cuốc bộ lên
gần hết dốc đầu kia, thằng nhỏ thấy
xe mình phóng tới, nó hết hồn giựt tay má nó ra
vụt chạy bất kể, con lo sợ cho nó nên quên
sợ cho mình. Hên là không hất hai mẹ con họ xuống
sông, cầu đâu có lan can đâu nà, trống trơn nên
lọt xuống dễ dàng….’
‘Tèo quên câu Cầu tre lắc
lẻo gập ghình khó đi… mà cẩn thận chạy
chầm chậm khi qua cầu…’
‘Cầu tre thì đã không sao
rồi thầy! Họ góp tiền của dân trong xã xây
cầu xi măng, nhưng làm cho có, bề ngang nhỏ quá,
chất lượng kém, nhiều chỗ sát mé bị
sứt mẻ làm cho mình chạy xe cũng khó khăn. Tai
nạn hà rầm đó thầy, hai tháng trước có
một đứa con gái 9, 10 tuổi té cầu chết. Con
cái đầu xỉa thuốc kiểu nầy là nhẹ…’
Rồi nó vừa tâm sự
vừa triết lý:
‘Nước mình nhiều
sông, nhiều rạch, cần phải thông thương
bằng thiệt nhiều cầu, để dân chúng bên
nầy dễ liên lạc được với bên kia
vậy mà. Còn không thôi ai ở đâu ở đó, tới bao
giờ người ta mới mở mắt thân thiện
với những người không phải ở khu xóm mình.
Con mơ ước có thiệt nhiều những cây cầu
đơn sơ nhưng chắc chắn bắc qua sông qua
rạch, trước là mở đường lưu thông,
sau là nối tình người. Con mơ, con mơ…
nước mình có những cây cầu chắc chắn như
mấy xứ nghèo chung quanh. Dân chúng họ coi lẩm
rẩm vậy mà may mắn, những cây cầu bên xứ
họ làm cho cuộc sống dễ chịu hơn, không làm
cho người ta té sông, không làm cho con nít chết
đuối…’
Thằng Tèo nói như bà
nhập, Khâm kêu nó về chỗ ba hồi bốn chập nó
mới về chỗ ngồi, mắt lim dim chắc là
mơ những cây cầu vững vàng để thanh niên
như nó chạy xe khỏi nhào xuống sông mất công
đo coi nước sâu hay cạn…
o o O o o
Nửa năm sau, Khâm đi
thăm Sáu Huê trong phòng cấp cứu bịnh viện
tỉnh.
Người đàn ông
lớn con, mạnh khỏe da mặt hồng hào ngày xưa
đã thành một con bịnh đương đi xuống
tuyệt cùng dường dốc của sức khỏe:
ốm o, xanh xao và không cử động được
nhiều, dây nhợ chằng chịt ở mũi, ở
tay.
Sáu Huê ứa nước
mắt thều thào trong cổ họng:
“Tiếc là ngày trước
anh Khâm khuyên tôi đừng hút thuốc, nên cữ
rượu và bớt trác táng nhưng tôi cười khinh
dễ bỏ qua khi thấy mình mạnh khỏe, tôi cữ
cái húp nước, ít hút thuốc lúc làm việc nhưng
đi karaoke nhiều hơn. Mà anh biết đó, vô trỏng
là rượu như nước và biết bao nhiêu thứ
khác dưng tới miệng không thể ngó lơ
được. Cứ nói mình không phải là thánh nên xã
cảng…. bây giờ….’
Khâm khuyên anh Sáu đừng
nói nhiều, tịnh dưỡng và báo tin buồn là cô giáo
Trang bị nhiều áp lực nên đã vượt biên cho
tới bây giờ hơn 3 tháng rồi mà không nghe tin tức
gì. Có thể là chuyện không may đã xảy ra cho cô ta….
Khâm nói mà không dám nhìn Sáu Huê,
anh ngó qua cái màn mỏng che ơ hờ cửa sổ. Ngoài
kia trời nắng u u buồn.
Sáu Huê thở dài, day mặt
vô vách, sợi dây nylon chuyền nước biển trên cánh
tay trái anh, vướng víu, Khâm sửa lại. Dầu sao Sáu
Huê vẫn tốt hơn nhiều người khác
đương quyền mà Khâm biết.
Anh nói để
người bịnh vui lòng khi nhìn trong phòng chỉ có hai
giường sạch sẽ với hai bịnh nhơn,
người nuôi bịnh chỉ ngồi ngoài hành lang hay
đứng lớ ngớ trước cửa phòng, không dám
vô:
‘Bịnh viện nầy cao
cấp, anh lại thuộc diện tiêu chuẩn cao,
chắc chắn rồi sớm muộn gì cũng bình
phục…’
Nụ cười buồn
tuy héo hắt nhưng cũng nở trên mặt Sáu Huê
dầu là một thoáng rất mau:
‘Chuyến nầy về tôi
tu. Tu theo hai cách, đi chùa, sống lành mạnh hơn và
giải quyết công việc hợp lý hơn.’ Tiếp theo
câu nói là tiếng thở dài và cơn ho xé phổi của Sáu
Huê. Khâm kéo tấm mền che cái bụng bự óc ách mềm
nhũng của anh ta.
‘Anh là gạch nối
giữa người cũ và người mới. Chúng tôi
cám ơn anh nhiều. Anh nghĩ coi nếu gặp
người khó khăn hơn chúng tôi còn khổ biết bao
nhiêu.’
Hình như Sáu Huê hiểu câu
nói của Khâm là câu trách ngầm nên nhắm mắt lại,
phân trần:
‘Áp lực từ nhiều
phía anh ơi. Áp lực mạnh lắm! Cơ chế anh
ơi. Cơ chế như gọng kềm sắt! Có
những quyết định mình cảm thấy bất
công mà không ký là không xong đâu. Chuyến nầy hết
bịnh về tôi nguyện sẽ làm cây cầu nối
kết giữa những người hai bên sông vì cho tới
bây giờ phải nói là thiếu sự thông cảm giữa
chúng tôi với các anh. Phải có những cây cầu và có
nhiều người thong thả đi qua cầu, đem
chuyện của bên mình chia xẻ với bên kia. Phải
hiểu nhau vì lâu nay xa lạ do sống trụ ở hai bên
bờ, không có phương cách giao tiếp..…’
Khâm ứa nước
mắt. Câu nói của người sắp chết là câu nói
thiệt lòng, nhưng Trời ạ, bi thương quá
đổi, như tiếng của con chim cố gắng
hết sức hót lần chót. ‘Chúng ta hai bên chưa
tương thông. Cần phải có những cây cầu, cây
cầu tượng trưng, nhưng mà là cây cầu.’
Và chuyện té sông của
thằng Hai Tèo nhảy vô trong trí làm cho những giọt
nước mắt của Khâm đột ngột rớt
lên chéo mền buông thỏng của Sáu Huê. Khâm bước
như chạy ra khỏi phòng bịnh nhân, mắt còn ràn
rụa, bất chấp những cái nhìn nửa ngạc nhiên
nửa khinh khỉnh của nhiều người trong
Sở vừa mới tới để làm bổn phận
viếng thăm xếp lớn. Khâm nói với chính mình:
‘Vâng! Rất cần
những cây cầu. Và rất cần người qua
lại. Càng nhiều càng tốt.’
Victorville, CA June 18- 23/ 2013
Thầy Nguyễn
Văn Sâm
Ghi Chú Văn Nghệ:
Nhà văn Nguyễn Văn Sâm sẽ ra mắt sách quyển: Chuyện
Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký với lời chú giải:
-Ngày 9 tháng 9
ở San Jose lúc 2:00 do Văn Đàn Lạc Việt của
nhà văn Chinh Nguyên (669-225-6043) tổ chức tại CLB/Mây
Bốn Phương 730 South 2nd St. San Jose Ca 95112.
-Ngày 24 tháng 9
lúc 10:00 ở Nam CA tại Thư Viện Việt Nam Toàn
Cầu 14550 Magnolia #205 Westminster, CA 92683, do Nha Sĩ Cao Minh
Hưng (714-332-9086) và CLB Tình Nghệ Sĩ tổ chức.