Khói Thuốc Cả
Truyện ngắn của Nguyễn
Văn Sâm
Truyện ngắn là bài
viết ít sự thực nhẩt, kế
đó là hồi ký, trên cùng là bài viết
về lịch sử. Sự thực làm
nguồn cho truyện ngắn, bị bóp méo
ít nhiều trong hồi ký, được
đào xới, phân tích, giải thích trong
các bài về lịch sử.... NVS.
Lời thầm thì
của cậu học trò trường con trai.
Kể từ 1946 vùng Chợ
Đệm quê ngoại cưu mang gia đ́nh chúng tôi không c̣n
yên lành chút nào nữa. Mấy lò gạch
bự xộn, những ruộng lúa minh mông, chục
đám mía Tây ngon ngọt, con sông rộng bát
ngát... của vùng nhà quê một thời
hiền hòa nầy bị tôi bỏ lại. Chiến
tranh khiến cha mẹ tôi kéo bầy con lếch thếch bốn
đứa từ chỗ nầy qua chỗ khác một
năm vài ba bận đi lần về Sàig̣n lánh
nạn. Chợ Đệm-Sàigòn, khoảng
cách nay chỉ bằng một chuyến xe buýt ngoại
thành sao mà ngày trước thấy muôn
trùng vời vợi. Tôi xẹt vô trường nầy
chừng năm ba tháng, ghé vô trường kia
một vài tuần. Cái hay ho của thời
đó là tới đâu cũng có
trường cho con nít học không bị
đòi hỏi chứng minh giấy tờ
gì. Không có khai sanh hả? Cứ khai danh
dự, khai sanh hay Giấy Thế Vì Khai Sanh đưa
cho trường sau cũng được. Dễ
vô dễ ra nên ba tôi cho mấy con nhập học
trường nầy trường nọ tự
nhiên, không thắc mắc. Tuổi trẻ dễ nhớ,
vậy mà chưa kịp nhẵn mặt hết mấy
đứa cùng lớp th́ đă bị lôi tuột qua trường
khác. Nhớ đầu tiên là cái trường chỉ ọp
ẹp có ba lớp, nguyên là căn nhà rộng của vợ
thầy Ba y tá chích dạo trong xóm theo toa Bác Sĩ
được ngăn phòng. Cô Ba mở ra để
giúp cha mẹ học trò cầm chưn mấy
đứa nhỏ khỏi lang thang lâu ngày do không thể
đi học hơi xa. Trường nghèo, băng ghế
cái nầy xọ cái kia đóng bằng đủ
thứ cây của người thợ vụng
về, nhám ồ và dăm nhỏ thường
đâm vô tay học trò nhiều khi làm độc,
thành mủ.
Năm đó lúc tôi học
lớp Tư (lớp 2 ngày nay), không nhớ ǵ nhiều, chỉ
nhớ là học được chừng non hai tháng th́ thằng
bán cà lem cục trước cửa trường vô học
chung lớp. Nó ngồi cùng bàn với tôi, tên nó hơi lạ
nên tới giờ vẫn c̣n nhớ: Trần Doăn Nhàn. Chúng bạn
cùng lớp chưa ư thức về sự tôn trọng
người khác nên cứ kêu Nhàn bằng cái biệt danh ‘thằng bán cà lem cục’, nói
chuyện về nó thường ra dấu
với nhau bắt chước cử
chỉ hai tay nó lẹ làng đè cắt cục
cà lem và rút cái tăm tre ghim vô trao cho
người mua một cách điệu nghệ. Nhàn
học giỏi vô cùng, bỏ xa các bạn vô trước.
Tôi nhớ là ḿnh từng làm anh hùng can thiệp để cứu
bạn bớt bị chế ngạo hay ăn hiếp. Vốn
là dân lội ruộng từ nhỏ, lớn con hơn mấy
đứa dân thành thị, lại là tay lăn chai nên tôi bảo
vệ nó hữu hiệu. Nó có vẻ cảm động lắm,
tâm sự về gia đ́nh với tôi nhiều điều. Tôi
có rộng thời giờ thắc
mắc ngó cái miệng bự xộn
của nó với cặp môi vảnh tròn
vì phải rao bán cà lem lâu ngày khi còn
quá nhỏ.
Rồi ba tôi xách con tạt qua
học trường mới. Đi mà tôi vẫn nhớ dai dẵng
cái thằng có tên Trần Doăn Nhàn. Tiếc là ḍng đời
vô t́nh đẩy con người ta đi vào nhiều lối,
từ đó đến giờ tôi vẫn mang trong trí
cái tên đó nhưng chưa bao giờ gặp lại hay nghe
tin về người bạn từng cùng ngồi chung một
băng ghế lỏng chỏng ngày chiến tranh xa
xưa.
Trường mới tên
chánh thức là ǵ không c̣n nhớ, h́nh như là Trường
Ngă Sáu Sàigòn, nhưng cha mẹ học tṛ đều
kêu là trường Hăng Đinh. Tên nầy có là do trường
dùng dăy nhà của cái hăng sản xuất đinh của ai
đó bị Tây tịch thâu. Ở trường Hăng Đinh
tôi quen với thằng Cửu. Sau nầy c̣n gặp nó ở
Mỹ, nói chuyện xưa râm ran khiến cho nhiều lần
người trong nhà chế ngạo ‘Tám’ quá, coi chừng
tăng hormone nữ. Trường nầy có thằng
Phơi và chị nó học cùng lớp. Hai chị em học
giỏi tất cả các môn. Tôi mắc cở thầm khi thấy
ḿnh thua họ cả một trời một vực. Lúc nhỏ
cũng có lúc chơi chung, tiếc là lớn lên gặp lại
không c̣n thân thiết cũ. Chỉ chào nhau, nói chuyện ngày
xưa năm ba phút rồi mạnh ai nấy đi, lòng
cảm thấy có gì hụt hẫng vì
những trao đổi nhạt phèo mà mình
tưởng rằng sẽ rất sinh thú. Chắc
thời gian làm mờ kư ức trong khi thực tế chiếm
chỗ trong trí ta bằng những lo âu tính toán cho hiện tại
và tương lai khiến con người lơ là với
h́nh bóng cũ.
Năm sau th́ qua trường Nguyễn Tri
Phương, nay trường lớn lên sau hơn nửa thế
kỷ, khang trang hơn và mang một cái tên mới lạ hoắc
và đầy máu lửa. Lúc mới thành lập, trường
c̣n cả khu đất trống phía sau, chúng tôi làm sân đá
banh bằng lá chuối cột lại tuy đau chưn nhưng
cũng hào hứng tận mây xanh. Điều đáng nhớ
là toàn khu nầy nhà cửa thơ thớt, chiều tan
trường nếu lơ mơ về trễ là bị bạn
bè nhát ma, có lần tôi bị hù chụp, đă chạy vắt
gị lên cổ, về tới nhà mặt xanh như tàu lá chuối.
Lớp Ba của tôi có anh Thạnh là đặc biệt. Kêu
bằng anh v́ Thạnh lớn hơn tụi cùng lớp chúng
tôi ít nhứt là 4 tuổi và là người rất chững
chạc. Không biết cha mẹ anh làm giấy tờ sao
đó mà anh học cùng với lũ nhỏ chúng tôi. Thạnh
có tài đá cầu vảy cá mỗi mạng cả ngàn cái,
chúng tôi đứa nào cũng mê mẩn theo coi anh đá lần
lần tới nhà mỗi khi tan học. Thạnh dường
như cưới vợ một hai năm sau đó khi chúng
bạn c̣n đương học lớp Nhứt (Lớp 5
ngày nay). Tôi nhớ có lần sau nầy nghĩa là 2, 3 năm
sau ngày thi Tiểu học, tôi ṭ ṃ ghé lại tiệm may của
Thạnh lúc anh đă có con 2 tuổi. Tôi nhắc lại chuyện
cũ, anh lơ lăng như nghe chuyện của ai đâu, anh
trở thành kẻ ngoại cuộc, đă quên hết
– quên cả cái tài đá cầu
của ḿnh ngày trước. V́ bận bịu
mưu sinh con người bị biến đổi
tới như vậy sao?
Rồi tôi qua trường
Trương Minh Kư trên đường Galléini (nay là
trường Nguyễn Thái Học trên đường Trần
Hưng Đạo) lớp Nhì tôi học có
thằng Thức Georges với tên Tây đáng
nhớ, thằng Bửu Đăng ưa khoe
rằng mình là chú vua Bảo Đại.
Lớp Nhứt có hai thằng bạn nhỏ con, mặt
mày như tiểu thơ các bạn thường chọc là
con gái cha mẹ đặt lộn tên rồi cho đi học
lộn trường. Trời xui đất khiến tôi
gặp lại một đứa cùng chung lớp ở
trường Petrus Kư. Sau nầy ở hải ngoại nó mạnh
khỏe, lớn con, lừng danh là người biết nhiều
về chuyện môi trường, đất đai ḍng
nước nhiễm độc... Còn thằng
tiểu thơ kia, tên cúng cơm là Lê Huyền Trang,
con của ông chủ tiệm vàng Lê Văn Sự
ở đường Quai de Belgique mà tụi
nhóc chúng tôi thường hát chọc: Thằng Lê Huyền Trang,
Là ông Tam Tạng, Cha nó
bán vàng, mà nó lang thang. Nghe chọc, nó
cung tay rượt tụi tui chạy có cờ.
Rượt thì rượt, chọc thì
vẫn chọc, lớp chúng tôi năm đó
nổi tiếng là lộn xộn trong giờ ra
chơi nhứt trường. Tôi gặp Trang
lần cuối khi nó là Trung Úy nhảy dù,
bị đạn thù xuyên bụng tại chiến
trường đương trong thời gian
nghỉ phép dưỡng thương.
Năm đó có cuộc di
cư từ Bắc vô Nam theo hiệp định Genève.
Đậu được vô Petrus Ký nhưng chưa
tựu trường, tôi lợi dụng lúc nghỉ Hè rủ
bạn lơn tơn vô thăm trường cũ, nơi
tôi theo học gần hai năm, thời gian lâu
nhứt trong đời làm học trò
Tiểu học. Ngôi trường có cái sân rộng
mà tụi chúng tôi hằng ngày xếp hàng trước lớp
dự chào cờ và nghe ông Hiệu Trưởng Phác giảng
dạy luân lư năm ba phút về những cách cư xử của
học tṛ khi ra đường cũng như lúc
ở nhà. Trường đặc biệt có
ba tác giả cuốn sách Khoa Học Quan Sát
lừng danh: Huỳnh Văn Đó, Nguyến
Hữu Thông, Tăng Văn Chương mà học
trò đứa nào được học với
bất cứ thầy nào cũng lấy làm
hãnh diện.
Sân trường bây giờ
la liệt đó đây là những túp liều, những lu vại,
bếp núc. Quần áo treo, giắt lủng lẳng
khắp nơi cả trên lan can và trên các
nhánh cây trứng cá. Một số bàn ghế
đă bị khiêng ra làm chỗ ngủ hay đă bị chẻ
ra làm củi chụm bếp. Tôi ngạc nhiên trong đau
xót khi thấy sân trường mình hoang tàn
một cách thảm hại. Lác đác có
những bếp lò làm bằng ba cục
gạch như là được cạy xới
lên ở đâu đó. Trên lò thường
có nồi niêu soong chảo đen đúa khói
ám, nhiều lò lửa còn đương
cháy, củi tàn ngã cả ra ngoài. Kế bên
thường là bãi nước lầy
của chỗ làm cá thịt và giặc
gỵa...
Tôi ṭ ṃ nh́n những bà cụ
dân quê đặc, tóc chải thành lọn
dài, quấn bằng tấm vải thâm, cuốn
vòng trên đầu. Điều khiến cho tôi và
thằng bạn lối xóm đi chung tò mò là
các bà đều có răng đen, mặc áo thâm
với hai vạt dài, cái ruột tượng luôn luôn quấn
ngang bụng, nói chuyện bằng giọng mà
cố gắng lắm chúng tôi mới
hiểu lơm bơm.
Có tiếng trẻ coi
rượt đuổi ca hát. Thằng Thôn bạn
cùng xóm, đi chung, thách tôi lập lại coi các
bé hát gì. Lấy hết trí thông minh
đương có, tôi lập lại khi kết nối với
hình ảnh người Chà Và
đương đội mâm bán bánh rế
bánh cay cũng mới bước vô cửa
trường: Ông Tây đen
nằm trong cái bồ. Đánh cái
rắm thành bánh ga tô... Ông Tây đen nằm
trong cái bồ. Đánh cái rắm thành
bánh ga tô...
Thằng trời
đánh Thôn, đập lên vai tôi một cái đau điếng
chỉ một bé gái chừng bốn năm
tuổi coi mũm mĩm dễ thương nói theo
kiểu dân chợ búa:
‘Thưởng cho
mầy con nhỏ bốn năm tuổi đó, đem
về nuôi một trăm tạ gạo nữa là
vừa. Tao chịu con chị, nó chừng
mười tuổi trổ mã tới nơi’.
Tôi mắc cở lãng
mắt ra khỏi đám con gái hát hò, hướng
về phía đám con trai đương hát
bằng một điệu mà tôi chưa
từng nghe:
Dưới trời kỳ quái sao cùng
Chân đâu còn vết ở trong đá
này
Ví đem sắc tướng tin đây
Như Lai chưa dễ thấy ngay được
ngài.
Tụi nhỏ vừa
hát vừa ịn chưn mình trên mấy dấu
chưn có sẵn trên nền đất ẩm. Chúng kéo nhau rồng rắn
đi một vòng rồi hát tiếp, rồi
lại ịn chưn:
Bể oan lai láng trên đời
Xưa nay ai vớt hết người trầm
luân
Mong cho ngọn nước chảy lần
Lòng mê ta rửa dần dần tỉnh ra.
Trò chơi kéo
dài. Tôi đứng vảnh tai nghe, chíp trong
bụng mấy câu hát chưa từng nghe trong Nam.
Thằng Thôn trố mắt ra ngó. Cái
miệng nó tròn vo. Độ chừng
mười lăm phút, thằng nầy
đố tôi là nếu tôi thuộc hai bài
đó thì nó bao tôi đi đổ xí
ngầu ăn bò vò viên trên đường
Hamelin bên hông trường... Hai bài hát vì
vậy in vô trí tôi để sau nầy tôi được
cái cơ duyên nói chuyện với Ngoạn
Nguyệt dễ dàng và ôm em thiệt lâu trong
tình thương mến...
Lời thì thầm của một học sinh
trường con gái.
Bà Nội tôi là con
một vị túc nho đã đỗ Tú Tài
trong kỳ thi Hương ngày trước. Nội
thấm nhuần nhiều điều thuộc về Nho
giáo và thuộc nằm lòng lắm
bài thơ Nôm mà Nội nói không sách quốc
ngữ nào có. Lúc nhỏ nhà tôi
ở khu buôn bán Phố hàng Buồm, cũng
thuộc hàng khá giả. Trẻ con trong phố thường
xuống vệ đường ca hát ngông nghênh
chọc ông Tây đen bán bánh. Nghe mãi nên tôi
nhập tâm lắm bài kỳ hoặc mà nếu
Nội nghe cháu gái u ơ thế nào cũng
mắng. Chẳng hạn như bài ông Tây đen nằm trong
cái bồ... nhưng mà thôi không dám kể tiếp
đâu.
Lúc tôi năm tuổi,
theo gia đình vào Nam, mấy tháng đầu
tạm cư trong một ngôi trường sau này tôi
mới biết là trường Trương Minh
Ký, cũng là tên một nhà văn miền Nam
như trường tôi học những năm
đầu tiên ở Miền Nam. Mẹ dặn không nên
bước ra khỏi cổng, nhưng thỉnh
thoảng tôi cũng ren rén theo một người
lớn nào đó ra ngoài ngắm
nghía mấy chiếc tàu điện chạy qua mà
trên đầu nẹt lửa thật đáng
ngạc nhiên.
Không nhớ gì
nhiều về thời gian ở đây ngoài
việc mẹ bảo chăm sóc hai cây cà chua
bỗng nhiên mọc dại, trổ trái xum xuê cạnh nơi
gia đình tôi dùng làm sàn nước.
Hằng ngày tôi ra ngắm hai cây cà của
mình, sờ nắn để thấy
từng trái lớn lên theo thời gian. Và
rồi tới lúc mọi người phải
dọn đi, trả trường lại cho học sinh.
Tôi thắc mắc không biết phải làm sao
với hai cây cà. Mẹ bảo cứ để
vậy, có thể ai đấy sẽ hưởng
những quả kia... Ngày rời khỏi sân
trường tôi khóc hết nước
mắt khi những tên con trai lém lỉnh
đã nhổ phăng cả hai, vất lăn lóc
và dẫm nát những quả tròn mịn,
bóng nhẩy mới lớn bằng ngón
chân mà tôi từng nâng niu.
Nhà mới chúng
tôi ở khu Tân Định, trên đường Paul
Blanchy, tôi học Tiểu học ở trường
Huỳnh Tịnh Của, chị Ngoạn Thư học tiếp
trường Trưng Vương.
Năm tôi học
lớp Nhất thì chị Thư cho theo các
chị đi bán báo Xuân ở mấy
trường con giai. Các bà ý ngại nên
cần người theo cho đỡ sợ.
Lần đấy, năm
1959, kể cả tôi là năm người,
chúng tôi đi bán ở trường Chu
Văn An. Chẳng nhớ trường tọa
lạc nơi nào, các bà ấy bảo đi
đâu thì mình đi đấy. Vào một
lớp nọ, hình như là Đệ Nhất
B6, chị Ngoạn Thư lí nhí xin phép giáo
sư cho các em bán báo. Thầy Ngà, sau
nầy tôi mới biết tên thầy, đặt viên
phấn lên bàn, lui ngồi vào ghế, nhìn
chúng tôi. Các chị quíu chân. Tôi rất
tự nhiên, khuân cả hai chồng báo to kềnh
vào. Có anh kia đứng lên xin phép thầy
cho phụ với các cô. Được phép
thầy và không đợi chúng tôi đồng
ý, anh đem phát cho mỗi người một
quyển nói là các bạn xem trong năm
phút, thấy thích thì giả tiền, không
thích thì giả báo lại. Lần đấy
chúng tôi bán quá hơn mình mong
đợi nhiều. Lớp ấy tiêu thụ
bằng cả ba bốn lớp cộng lại.
Bán xong, khi thấy
bọn nữ sinh chúng tôi phải khuân vác
nặng xuống cầu thang có anh kia xin xung phong ra
giúp. Khi đi gần tôi anh ấy nói, giọng Nam:
Nữ sinh Trưng
Vương sao bé bằng cái kẹo thế
này?
Các bà ý quay
lại ngó tôi cười trêu. Tôi đáp
tự nhiên:
Em chưa phải là
nữ sinh Trưng Vương. Em là học sinh
trường Tiểu học Huỳnh Tịnh Của,
Tân Định.
Chị Ngoạn Thư
đi cạnh anh nhanh nhẩu khi nãy. Sau này tôi
mới biết anh tên Cần, Lê Mộng Cần. Anh
chị quen nhau từ đấy. Những lần
đầu tiên đến nhà chúng tôi, anh Cần
thường đi với anh Sảnh,
người đã nói tôi bé như cái
kẹo. Thân thiết tôi xem hai anh như người thân
trong gia đình. Tiếc là anh Cần năm sau phải
đi du học Nhật Bản, bỏ chị Ngoạn
Thư tôi lại nhà chúi đầu vào sách
vở với nỗi buồn thâm quần hốc
mắt sâu.
Khói thuốc cả.
Tôi ra trường
được bổ nhậm về tỉnh ba năm
sau mới được chuyển về
Sàigòn. Trường lớn, nổi
tiếng học sinh giỏi và ngoan. Dạy môn Triết
dầu không thích vì phải soạn bài thật
cẩn thận. Năm nọ, kỳ thi Tú Tài 2,
khóa 1, lớp tôi chỉ có một cậu
rớt phải thi lại khóa 2. Vài trò
được phép du học cùng nhau tổ
chức một tối liên hoan có ăn uống
và khiêu vũ. Được mời, tôi
từ chối nhiều lần nhưng các em
khẫn khoản quá nói rằng Thầy
phải tới cho các em vui, thầy trò mình
biết bao giờ mới được
gặp lại. Phải nhận rằng em ấy
nói hay và tha thiết...
Tiệc thiệt tưng
bừng, vui nhộn, sang trọng hơn tôi
tưởng. Người tham dự toàn
là học sinh nam nữ trang lứa nhưng
sành điệu và chững chạc khác
với hình ảnh của các em lúc còn
đi học chỉ mới cách nay chưa
đầy một tháng.
Lúc bắt
đầu màn khiêu vũ, tôi bị bắt buộc
phải nhảy một bản slow khai mạc. Các em
dẫn đến cho tôi một cô thật đẹp, trong
ánh sáng lờ mờ tôi có cảm
tưởng là cô ta quen quen. Mùi nước
hoa thơm ngát, giọng Bắc ngọt ngào, cô
ôm tôi thân thiện và xưng em kêu tôi bằng thày. Cô
nói mình học Trưng Vương, mới
đỗ Tú Tài 1, ban C. Cô nói chuyện có
duyên, từ chuyện nầy dẫn sang chuyện kia,
rằng ngày xưa có người nói
mình học Trưng Vương sao mà bé như
cái kẹo. Tôi cười vui, bớt đi
phần nào bỡ ngỡ khi khiêu vũ
trước mắt bao nhiêu học trò.
Cô nói thày dạy
trường Pétrus Ký mà thày có biết
ở Sàgòn có một trường
cũng tên có chữ Ký không. Tôi nói lúc
nhỏ tôi học ở đó, còn lạ
gì. Cô nói em có kỷ niệm ở
đấy vì ngày mới di cư vào Nam gia
đình tạm trú trong trường.
Tôi nhớ lại
lúc mình đi thăm trường cũ bảy
tám năm về trước. Tôi hát nho nhỏ:
Ông Tây đen nằm trong
cái bồ... rồi ngừng lại vì
mắc cở. Ai đời làm giáo
sư, đang khiêu vũ với một cô đẹp
mà hát bậy. Tôi chuyển sang: Dưới trời kỳ quái sao cùng
- Chân đâu còn vết ở trong đá
này.... Tôi bàng hoàng khi thấy cả hai chúng
tôi cùng ngâm nga hết cả hai bài. Tới
đây thì tôi tịt, cô bé còn hát thêm vài
ba bài nữa rồi hỏi sao thầy biết
mấy bài ấy. Tôi nói tình cờ thôi. Lúc
xưa trước khi nhập trường Trung
học, tôi đi thăm trường cũ, được
nghe trẻ con hát. Cô ta nói có thể là trong
số trẻ đấy có em.
Nhạc khiêu vũ chấm
dứt bài, chuyển sang Tango. Cô ta vẫn ôm tôi sát
hơn, nói nhỏ:
Ta tiếp tục bài này.
Rồi ngước lên nhìn tôi: Anh không nhận ra em
sao? Bé Ngoạn Nguyệt đây. Té ra cô ta
đã nhận ra tôi ngay từ đầu nhưng
không nói ra. Mới có chừng ấy năm
mà cái kẹo ngày xưa đã thành
thiếu nữ đương độ. Nhớ
tới câu nói của thằng Thôn ngày
trước, tôi bạo dạn:
Ngoạn Nguyệt dùng
nước hoa gì mà hương thơm lạ? Soir
de Paris?
Không, Rêve d’or.
Giá đừng
dùng nước hoa thì hơn, vẫn... sang
trọng như thường. Tôi dùng từ sang
trọng vì không dám dùng từ đang
có trong trí.
Vòng
tay đang ôm ngang hông tôi xiết mạnh. Tôi bạo dạng
hơn vì hoàn cảnh và bóng tối:
Ngoạn Nguyệt cho anh hôn
lên tóc nha.
Là tình anh em như
anh Cần ngày trước hay khác?
Khác.
Anh có người
yêu chưa?
Đã, nhưng sẽ
tính lại sau này.
Thế thì không
được.
Cho tới khi bản
nhạc dứt chúng tôi về bàn, không nói
gì thêm. Từ đấy Ngoạn Nguyệt sang
ngồi với tôi luôn, chắc cô bé có
ý muốn nói gì đấy. Cô nói sang
đàng từ chuyện nầy sang chuyện kia
như là đương bối rối...
Em học ở Trưng
Vương sáu năm rồi, Giáo sư em
thương kính nhất là bà Hồng
Điệp, giám thị thì thích bà
Từ Nguyên... Trường cho em tinh thần học
hỏi nghiêm túc, tình thương bè bạn, nghĩa
thầy trò. Xin lỗi, đáng lý em gọi anh
bằng thày nhưng vì chúng ta đã là
anh em trước cho nên em mạn phép xưng hô
như thế.
Sở dĩ em nói không là vì em
học được rằng ở
đời phải biết việc gì quan trọng
việc gì không. Nói chung
tất cả mọi chuyện rồi sẽ tan
biến như khói thuốc. Biến thành không.
Nhưng cùng lúc đó mọi chuyện cũng
quan trọng, nó làm cho con người mình
trở nên có giá
trị hay tồi tệ....
Tôi lấy hết can đảm
đặt tay mình lên trên bàn tay đẹp của
Ngoạn Nguyệt như cho em một điểm
mười.
Ngoạn Nguyệt đọc
khẽ cho tôi bài thơ em nói là mới
học thuộc khi xem Giai Phẩm Xuân của
trường Trung Học Hoàng Diệu năm nay. Em
nói:
Bài thơ buồn quá.
Em coi mà như thấy vận vào đời
thanh niên thiếu nữ ngày nay.
Trong tiếng nhạc
nhẹ, lẫn với âm thanh ồn ào của
buổi vui chơi đông người, tôi nuốt
từng lời giọng đọc buồn của em.
Như có tiếng nấc nghẹn ngào lạc
lõng:
Khi ánh trăng xếp hàng
nằm ngủ.
Tôi hỏi rằng ḿnh đứng đợi ai đây,
Trời vào Thu, trời lớp lớp mưa bay,
Tôi 16 tôi vào đời con gái,
16 tuổi yêu không ngần ngại,
Người yêu tôi anh thiếu úy không quân,
Ngoạn Nguyệt cần
ly rượu chát của tôi san nửa qua
cái ly không trên bàn, đọc tiếp:
Tôi đứng nơi nầy trông ngóng trời Tây,
Để thầm nhủ người yêu tôi ở
đó…
Có người yêu thời
chiến tranh thật khổ.
Lúc gần nhau ngắn ngủi làm sao,
Lúc giă từ cũng không kịp hôn nhau,’
tôi đă khóc sợ người yêu vào lịch sử,’
Trời có buồn đâu
sao trời ủ rũ,
Mây có buồn đâu sao mây rũ khăn tang,
Trời vào thu trời tiếc thương chàng,
Tôi 19 tôi vào đời quả phụ..
Tôi nói mà như nói với mình:
Thời chiến
mọi người đều có hay sẽ có
những đau buồn. Người đi
đối diện với chết chóc, người
ở nhà chìm ngập trong lo âu hay chờ
đợi cái tang nát ruột xé gan.
Lơ đãng nhìn
những hạt khói được rọi
sáng thành những làn khói mỏng khi
ánh đèn lướt qua, Ngoạn Nguyệt
nói trong tiếng thở dài:
Khói thuốc cả.
Thơ buồn không
địa chỉ.
Hai năm sau một
chiều gần lễ Noel, một bức thư màu
xám được ai đó đem tới
trường cho tôi, không địa chỉ
người gởi nhưng nhìn cách trình
bầy và chữ viết ngoài phong bì tôi run
run linh cảm có tin gì đó không lành
từ Ngoạn Nguyệt. Thơ rất đặc
biệt khiến nửa thế kỷ qua như vẫn
còn hiện hiện trước mắt:
Sàigòn, ngày buồn
không nước mắt 1970
Anh S.
‘Tôi mười chín tôi vào đời
quả phụ.’
Khói thuốc cả.
Em: NN.
Từ đó
đến nay tôi không được tin tức gì
của Ngoạn Nguyệt. Biết mình vô lý,
nhưng mỗi lần nhớ về thời trai
trẻ tôi đều thầm van vái người em
gái Trưng Vương thông minh và dễ
thương đó không
có thân phận của khói thuốc dầu cuộc
đời đã vốn dĩ phù du mà
lại luôn tác quái lên mọi người. Chẳng
chừa một ai. Van vái chỉ vì thương
cảm và sự yếu lòng. Khói thuốc
nào rồi chẳng biến tiêu? Câu than của em
đã ảnh hưởng nhiều trên hành
trạng của tôi cũng như đã
hướng dẫn nhiều phản ứng
trước cuộc đời. Em có biết
không Ngoạn Nguyệt?
Nguyễn
Văn Sâm
Khởi thảo: Victorville,
CA, 15 tháng 11,
Hoàn tất: Alfortville, ngoại
ô Paris, 02 tháng 12, 2016