Hà Nội Yêu Dấu (1945-1946)
Thầy Nguyễn Ngọc Đường
Ngày 19
tháng 8 năm 1945, khi Việt Minh cướp chính quyền
tại Thái Nguyên, gia đ́nh tôi sợ bị hỏi tội
nên chỉ trong một thời gian ngắn đă bán nhà và âm
thầm cuốn gói về Hà nội. Sau khi ổn
định được chỗ ăn ở, Bố xin
việc làm trong hăng bột talc, c̣n Mẹ và chị xoay qua
làm bánh dợm, bánh khúc để anh người làm đem
đi bán dạo. Ngày xưa t́nh cảm
giữa người làm và chủ nhà thật gắn bó và
thương nhau như trong một gia đ́nh. Anh người làm tên Huệ và đă giúp việc
nhà tôi đến gần 20 năm, kể từ khi tôi
mới sanh ra. Khi chúng tôi về Hà nôi, anh nhất
định xin đi theo và t́nh nguyện
làm không lương v́ biết nhà tôi nghèo, tiền đâu
để trả cho anh.
Mùa Thu năm 1946,
trường trung học công lập Nguyễn Trăi mở
kỳ thi tuyển học sinh vào lớp đệ Thất
và tôi may mắn đă trúng tuyển. Tôi nhớ măi buổi
sáng hôm đi thi, Bố đưa đến tận
cổng trường và dặn ḍ phải cố gắng
đậu v́ gia đ́nh không có tiền cho tôi học
trường tư. Buổi trưa hôm
đó thật sung sướng muốn rơi nước
mắt v́ lần đầu tiên trong đời, tôi
được Bố ưu ái dẫn đi ăn
cao lâu ở phố hàng Lọng, Cửa Nam.
Năm
đầu học trường Nguyễn Trăi, mỗi ngày
Bố cho mấy xu để đi tầu điện.
Trường lúc đó toạ lạc tại vườn
Bách Thảo, tuy hơi xa nhưng tính tham ăn nên tôi đă
đi bằng lô ca chân, dành mấy xu để ăn quà
vặt. Gia đ́nh thuê nhà ở Ô Cầu Rền gần
Chợ Mơ, đi đường tắt phải qua
phố Hàng bông Thợ Nhuộm, quăng đường
cũng khá dài, phải đi khoảng hơn một giờ
mới tới trường. Dạo đó món ăn
thích nhất của tôi ngoài Phở là món Ḿ xào mề gan gà.
Sau khi để dành đủ tiền, tôi lội bộ
từ Ô Cầu Rền lên phố hàng Buồm cả mấy
cây số tới tiệm ăn tầu Siêu Nhiên để
thưởng thức món ăn khoái khẩu đó, thật
là chân hạnh phúc không thể diễn tả bằng
lời được. Lúc c̣n bé, mỗi khi nhà có Giỗ hay
tiệc tùng tôi chỉ thích ăn món gan,
lợn hay gà ǵ cũng xơi ráo v́ nó bùi bùi ngon hết
xẩy. Sau này khi tới Mỹ tôi đă mua cả ki lô gan
lợn về luộc để ăn
cho bơ ghét nhưng than ôi sao nó tanh quá xơi không nổi
đành phải vứt hết vào thùng rác. Có
người mách nước, bảo đem gan ngâm vào
sữa tươi một đêm rồi luộc th́ sẽ
hết tanh ngay và quả đúng như vậy nhưng
mất công quá, hơn nữa gan là kho chứa cholesterol
đấy. Ở phố Huế, gần
chợ Hôm có một tiệm phở Tầu cũng hấp
dẫn lắm. Mẹ tôi mỗi lần
đi chợ, nếu được tháp tùng, thường
cho tôi xơi món phở đặc biệt này. Thịt
ḅ, hầm bà làng đủ thứ, được cho
tất cả vào một cái thố khá lớn rồi ninh lên
thật nhừ với nước và nêm nếm bằng ngũ vị hương thơm lừng. Lúc khách ăn, chủ tiệm chỉ dùng cái môi múc
cả thịt lẫn nước chan vào bát bánh phở là
tuyệt cú mèo, đại khái giống như phở ḅ kho
nhưng sao nó lại ngon quá xá dzậy. Có lẽ
tại lúc đó đương tuổi học tṛ, nhà
lại nghèo nên bị đói kinh niên chăng!
Nhập trường
độ một tháng, chắc Bố thấy đi tầu
điện cũng vất vả nên cho tôi trọ học
tại nhà một người bạn, cư ngụ trong
một làng nổi tiếng về nghề trổng hoa, có
tên là Ngọc Hà, ở sát bên cạnh vườn Bách
Thảo. Thế là, từ nay tôi không có một
đồng xu dính túi nữa v́ đi bộ đến
trường đâu c̣n cần đến tầu
điện. Cùng trọ học có mấy
anh lớn tuổi học lớp trên, v́ tôi là nhỏ
nhất nên thường bị các anh chọc ghẹo
đôi khi đến phát khóc.
Thỉnh thoảng cũng
được các anh tội nghiệp cho đi ăn ké ở các tiệm Cao lâu. Có lần khi
ăn xong, mấy anh lén giấu đĩa thức ăn vào
trong bụng hay túi quần, rồi cứ tỉnh bơ ra về thong thả. Sau này tôi mới
hiểu, th́ ra tiệm ăn Tầu hồi đó tính
tiền theo đĩa. Mấy
anh giấu bớt đĩa đi vừa đỡ
tiền lại có đồ xài, thật ma mănh quá chừng.
Năm năm sau, từ vùng
kháng chiến trốn vào Hà nội, khoảng cuối 1951,
nhà tôi đă dọn lên ở cạnh phố Huế, sát ngay
chợ Hôm. Gần đó có 2 tiệm phở mà tôi
thường hay ăn, đó là Tân Tân và Hàm Long. Lúc c̣n khá
tiền th́ xơi phở tái 5đ, khi nào cạn tiền th́
chịu khó đi xa đến phố Hàm Long v́ phở
ở đây rẻ, ngon chỉ có 3đ. Tiệm
này có thêm món phở nhừ, tức là thịt lấy ra
từ xương ḅ đă hầm kỹ, thường
gọi là xíu oắt, ngoài ra c̣n phở tủy nữa.
Chao ôi, viết đến đây nước miếng
của tôi đă chẩy ra rồi, quí vị ạ. Hà
nội hồi năm 46 cũng có vài hàng phở thật ngon
ở rải rác chung quanh Hồ Gươm và Phố Cổ
như phở hàng Than, Đông Mỹ, Kim khánh, Cầu
gỗ... c̣n những hàng phở được diễn
tả bởi những nhà văn như Nguyễn Tuân,
Thạch Lam, Vũ Bằng có thể đă tuyệt tích giang
hồ hết cả rồi.
Phở
Gà- Hàng phở Gà này rất đặc biệt có
thể gọi là ngon nhất Hà nội và chỉ là phở
gánh, bán khoảng từ 6giờ đến 8giờ sáng là
dẹp tiệm. Hàng phở Gà chiếm một chỗ
cố định tại phố Huyền Trân Công Chúa,
thịt gà toàn là gà Sống Thiến và gà chặt thành
từng miếng, tuỳ theo ư thích
của khách, bán đến đâu chặt đến
đấy. Buổi sáng trước giờ đi làm mà
xơi được một bát phở gà ở đây th́
vất vả lắm. Trước hết phải
đến trước 6 giờ và xếp hàng, tay cầm sẵn bát chỉ có bánh phở, để
lát nữa ông hàng phở sẽ chặt thịt gà cho vào bát
theo ư của ḿnh. Nó mất nhiều th́ giờ v́ thịt gà
không được chặt sẵn, và lại tuỳ theo ư của khách nghĩa là ông th́ thích đùi,
ông thích cánh, phao câu, lườn, ức, ḷng gà... đủ
thứ hầm bà làng, có khi đến lượt ḿnh th́
chỉ c̣n bánh phở và nước dùng mà thôi. Sau khi may
mắn đă có đồ nghề trong bát rồi th́ cứ
tự động đi ra chỗ thùng nước dùng
muốn chan bao nhiêu cũng được, nhưng tham quá
th́ anh đến sau đành xơi phở khô thôi, dĩ nhiên
ông hàng phở không chịu trách nhiệm về cái vụ
hết nước lèo này. Nước dùng gà của ông hàng
phở đúng là số 1, ngọt thịt và thơm
điếc mũi. Sau này khi vào Sài g̣n, theo tôi chỉ có
tiệm phở gà ở đường Trương
tấn Bửu là khá ngon, c̣n phở gà Hiền vương
th́ chất lượng hơi dở.
Thủ
đô khói lửa- Đêm 19 tháng 12 năm1946, khi
cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, tôi phải
bỏ học và theo gia đ́nh đi tản cư. Theo lệnh của Thị trưởng, những
ai không có nhiệm vụ chiến đấu đều
phải di cư ra ngoài thành phố để tránh những
thiệt hại về nhân mạng. Thế là dân Hà
thành lũ lượt gồng gánh,
bồng bế nhau dời Thủ đô yêu dấu
để đi về phương trời vô định
v́ biết đi đâu bây giờ. Thật ra trước
đó ít lâu, dân thủ đô có bà con thân thích ở các
tỉnh chung quanh đă liên lạc rủ
nhau đi trốn từ khuya rồi. Chỉ
có dân Hà nội chính gốc là bị kẹt, đành tử
thủ cho đến phút chót với hy vọng mong manh là
điều đ́nh, nhưng tất cả đều đă
quá muộn.
Sau khi dời thành phố,
đám di tản buồn, trong đó có gia đ́nh tôi, bắt
đầu dắt díu nhau lang thang, qua
hết làng nọ đến làng kia, vừa đi vừa
bán dần những tài sản mang theo để phục
vụ cái dạ dầy. Đến khi
những hành trang quí giá cuối cùng đă nằm yên trong
bụng rồi mọi người mới nh́n nhau ngao ngán
thở dài. Gia đ́nh lúc mới tản
cư c̣n có thêm một anh giúp việc, nhưng sau một
thời gian dài thất nghiệp anh đă được giải
phóng v́ đâu c̣n ǵ nữa để mà gánh với gồng.
Mỗi khi dừng chân ở một nơi nào, đám dân
khốn khổ lại tản mát ra trú ngụ ở các làng chung quanh để sống tạm bợ cho
qua ngày. Hôm nào có tin Tây về càn quét lại hốt hoảng
kéo nhau chạy tiếp, càng ngày càng xa Hà thành hoa lệ.
Đời
sống du mục tuy vất vả nhưng riêng tôi cũng
có những kỷ niệm vui vui. Trong khi người
lớn hễ gặp nhau là than thở, bàn bạc về
một tương lai tối ṃ, th́ lũ
con nít vẫn vui chơi, đùa nghịch vô tư v́ đâu
c̣n phải đi học nữa. Buổi sáng tôi lục
cơm nguội, nếu cạn láng th́ chạy ra chợ ăn điểm tâm miễn phí. Chao ôi
thật đủ thứ hấp dẫn ở trên
đời: nào là khoai sắn, trứng vịt luộc, bánh
đúc, xôi chè... hầm bà làng, bầy ra trong những quán
nhỏ bé xinh xinh làm tôi thèm rỏ răi. Sau khi đă ăn no bằng mắt, tôi bèn vào nhà lồng
chợ để xem các ông lái lợn đánh cờ
tướng. Tôi tuy mới 15 nhưng trí
nhớ tốt nên thuộc rất nhanh những thế
cờ bí hiểm để dành, pḥng khi phải chiến
đấu với các đấu thủ khác. Những hôm trời mưa gió, rét buốt không
trốn đi chơi được, Bố bắt tôi
hầu cờ để giải sầu. Có lần bị chiếu bí, Bố lườm tôi
thật dễ sợ, làm tôi chợt nhớ đến
những trận roi quắn đít khi c̣n học Bố
ở lớp Ba trường tiểu học Rene Robin
tỉnh Thái nguyên, quê hương thơ mộng ngày xưa
của tôi.
Năm đó gia đ́nh
tạm trú tại làng Hạ hội tỉnh Sơn Tây ngay
dưới chân núi Chùa Thầy, một danh lam thắng
cảnh của Bắc hà. Hàng ngày tôi leo
núi lên Chùa ngắm cảnh 2, 3 lần mà không biết
mệt, chỉ khi nào đói bụng mới ḅ về nhà. Tôi
lang thang đi thăm nào là hang Thánh hoá, chỗ
Tiên đánh cờ, đường lên Trời, xuống Âm
phủ... đi đến đâu gặp những cây có
quả ăn được là tôi xơi ráo để
về nhà... đỡ cơm. Thú thực, trong thời gian
chạy loạn, cái món ăn nhanh và
chạy giỏi th́ tôi thuộc hạng siêu. Tính tôi nhát,
hễ nghe thấy tiếng súng hoặc có ǵ nguy hiểm là
cắm đầu chạy thục mạng bất kể
phương hướng, đôi khi lạc qua các nhóm khác làm
gia đ́nh phải t́m kiếm vất vả.
Thảm
kịch- Vào
một buổi sáng cuối Đông, gió lạnh thổi
buốt đến tận xương, bất ngờ du
kích báo tin làng đă bị lính Tây vây kín nên không ai chạy
kíp. Tất cả đành chịu trận và
chỉ biết ngồi cầu nguyện. Chị tôi, 20 tuổi, bôi tro than đầy mặt
rồi chui vào gầm giường để trốn.
Bố Mẹ, hai em nhỏ và tôi, mặt xanh như tầu
lá, hồi hộp ngồi bất động ở trên
giường, những nhà ở xung quanh cũng đều chung một số phận. Lũ
Tây lục xoát từng nhà, bắt đi hết những
đàn ông, thanh niên, ngoài ra tha hết không giết ai cả.
Bố tôi cũng bị bắt theo
đám này và Chị tôi may mắn đă thoát nạn trong
đường tơ kẽ tóc.
Khi quân Pháp vừa rút
khỏi làng th́ súng cối bắt đầu bắn như
mưa trở lại. Đạn nổ tứ tung, nhà cửa tan nát, người chết
người bị thương, vừa khóc vừa chạy
tán loạn. Gia đ́nh tôi thật thê thảm.
Mẹ trúng đạn vào chỗ nghiệt
chết ngay không kịp trối. Tôi
nằm bên cạnh thoát chết, chỉ bị mảnh
đạn nhỏ ghim sau lưng. Tội
nghiệp em trai tôi, nằm phía ngoài bị mảnh
đạn lớn cưa gần đứt đầu
gối, chẩy máu đến chết v́ không
được băng bó. Chị tôi, thân gái một
ḿnh phải lặn lội qua làng bên cạnh để t́m
mua áo quan, nhưng cuối cùng chỉ mua được
một cái duy nhất nên đành phải gạt nước
mắt chôn hai mẹ con vào một hố. Sau đó ba
chị em, thất thểu dắt díu nhau t́m
đường lên tỉnh Thái nguyên, hy vọng
được gặp lại bà con năm xưa để
nương tựa trong những ngày sắp tới
Bất hạnh thay, 3
năm sau đến lượt Chị tôi qua đời
tại tỉnh Bắc giang v́ bệnh chó dại. Lúc đó
Chị mới 23 tuổi, đă có gia đ́nh và đang mang
bầu đứa con đầu ḷng,không
biết là trai hay gái. Như vậy, gia đ́nh tôi gồm 6
người, chỉ trong thời gian 4 năm, đă hy sinh
mất 3 người cho cuộc kháng chiến chống Pháp.
Sau 5 năm tham gia kháng chiến trên núi rừng Việt
Bắc, trải qua những ngày bụi đời gian
khổ, cuối năm1951, hai anh em tôi mới
được gập lại người Bố thân yêu
tại Thủ đô Hà nội.
Trở lại chốn xưa- Viết đến đây
tôi hồi tưởng lại h́nh ảnh khủng khiếp
đă xẩy ra cách đây hơn nửa thế kỷ.
Em trai tôi, mới 7 tuổi, đầu gối
gần gẫy rời, máu me đầm đ́a, không nói
được một lời, chỉ nh́n tôi bằng
đôi mắt tuyệt vọng. Mẹ,
nằm bên cạnh bất động với đôi mắt
nhắm nghiền. Cả ba chị em
nghẹn ngào không ai khóc được một tiếng.
Có lẽ diễn biến xẩy ra quá nhanh và
kinh hoàng nên nước mắt đă tức tưởi
không thể chẩy ra. Và cho đến
bây giờ, khi viết những ḍng này, tôi mới có thể
khóc và nước mắt đă được chẩy ra
thoải mái. Cái chết của Chị
tôi vài năm sau đó, tuy không có máu chẩy nhưng lại
đau đớn vô cùng. Những cơn điên
nổi lên làm Chị rú lên từng hồi do biến
chứng ác liệt của bệnh dại. Mỗi khi có
một chút gió hay trông thấy nước là cơn điên
lại nổi dậy, hành hạ Chị suốt cả
một tuần lễ và tôi phải chứng kiến
thảm kịch này từ phút đầu cho đến khi
Chị trút hơi thở cuối cùng. Thuốc
ngừa bệnh dại lúc đó chỉ có ở Viện
Pasteur Hà nội mà thôi.
Năm 1999, khi trở
về thăm Việt Nam, tôi lặn lội, thăm
hỏi, cố t́m lại những địa danh ngày
xưa, nơi gia đ́nh đă phải hứng chịu
những đau thương thảm khốc và cho
đến bây giờ c̣n in sâu trong tâm khảm. Nhưng tiếc thay v́ thời gian đă quá lâu nên
mọi dấu tích đều được chôn chặt
vĩnh viễn dưới ḷng đất quê hương.
Hồi kư
Nguyễn Ngọc Đường