Gìn Giữ Quá Khứ
Của Cải Lương
Thầy Nguyễn
Văn Sâm
Sàigòn của thập
niên 50 thế kỷ trước. Thời ông Ngô Đình Diệm
chưa về chấp chánh, thời của những Thủ
Tướng lên cầm quyền thiệt ngắn như Nguyễn
Văn Thinh, Nguyễn Phan Long, Bửu Lộc, Nguyễn Văn
Tâm, Trần Văn Hữu, đến và đi không để
lại được công trạng gì cho dân tộc vì những
áp lực của những thế mạnh chánh trị từ
các cường quốc xa xôi. Họ cũng chẳng để
lại gì trong trí nhớ thơ dại của tôi, chỉ ghi
nhận những gì xảy ra trong một hai khu phố gần
gần nơi mình ở. Chú ý đến những ồn ào sôi
động hơn là những chuyện xa vời như chánh
trị, văn hóa…
Lúc đó ngày nào như ngày
nấy, tôi và những đứa bạn trang lứa
sống trong khu gọi là Chợ
Cháy của cái chợ lớn hơn là Cầu Ông Lãnh, mới
qua tuổi mười, chui rút trong những gian sạp nho
nhỏ, tất cả sinh hoạt của đời sống
đều diễn ra trong đó. Chừng khoảng chín
giờ sáng thì đã bắt đầu chờ đợi
chiếc xe Renault nhỏ và mấy chiếc xe ngựa
của những đoàn cải lương chạy qua mà hai
bên hông xe nào cũng có dựng hai tấm ban-nô lớn vẻ
hình quảng cáo tuồng cải lương, bu theo để
xin những tấm giấy ‘prô-gam’ (programe) nói về
tuồng hát đêm hôm ấy. Trống trong xe
đánh thùng thùng điếc tai nhức óc chen với
tiếng phèn la, chập chỏa chác chúa không làm chúng tôi ngại
ngùng, trái lại càng bị kích thích hơn. Chạy, chạy.
Bu bu. Níu níu. Kêu kêu. Cả chợ ai cũng ngó theo
xe quảng cáo và lũ con nít ở trần chúng tôi. Nhiều
bà nhiều cô cố bước mau tới kế bên
để kịp nhận một tờ. Giấy in màu xanh
đỏ có hình đào kép bận quần áo đẹp đẽ
sang trọng, có sơ lược tuồng tích và có những
câu rất kêu quảng bá sự hay ho của tuồng
sắp được diễn đêm nay.
Chúng tôi tò mò để
biết họ hát tuồng gì thì ít mà để làm một
thứ tiền chơi đánh bài, chơi oảnh-tù-tì
với nhau thì nhiều. Người phát giấy prô-gram
nhẵng mặt và bực bội với chúng tôi. Họ hất
tay không cho khi thấy mấy thằng
nhỏ xin hết tờ nầy tới tờ kia. Được
tờ nào thì giấu mau ra sau lưng rồi đưa tay kia ra xin tờ khác. Có thằng, thường
là thằng Dần, bạo dạn hơn, chờ lúc anh phát
giấy vô ý, lẹ như chớp giựt cả xấp
chạy biến vô trong chợ. Bữa hôm đó nó tha hồ
mà làm cái của sòng bài cào
chơi tiền bằng giấy prô-gram, đứa nào
đặt mấy tấm nó cũng giở, cũng ăn thua đủ.
Nhờ những tấm giấy
xanh đỏ quảng cáo kia chúng tôi
biết rành mặt đào kép, biết tên gánh hát, biết
tuồng tích và biết ai thủ vai gì trong tuồng. Có
đứa còn rành hơn, nó biết tên thầy tuồng và
gánh nào chuyên hát loại tuồng gì nữa. thằng Mẹo
với thằng Ri kể vanh vách nào là gánh Hậu Tấn
của Bảy Cao chuyên hát tuồng có pháo nổ lạch
tạch, có bắn súng cắc bùm với lửa xanh phát ra
ở đầu súng với mùi pháo bay ra khét lẹt, gánh
Hậu Tấn Năm Nghĩa chuyên hát tuồng xã hội với
chủ nhơn Lư Hòa Nghĩa xuống vọng cổ mùi
tận mạng bằng những tiếng ơ… ơ kéo dài
mà nó bắt chước kéo theo thì lần nào cũng đứt
hơi ho sặc sụa. Mấy chị đàn bà bàn nhau
rằng kép Thanh Tao, kép Năm Phồi, kép Bảy Nhiêu
đẹp trai nhứt hạng. Có chị chê rậm rì là kép
Bảy Cao lên sân khấu coi bảnh tỏn vậy mà ai lén
lên dãy ghế thượng hạng sẽ thấy ông ta
mặt rổ hoa mè, đánh phấn dầy cộm cũng
không che khuất hết.
Cải lương và
tuồng tích ảnh hưởng lên đời sống
của chúng tôi, đứa nào cũng thuộc vài ba
đoạn, năm bảy bài ca trong mấy tuồng đã
in ra giấy như Hoàng Tử
Lưng Gù hay Máu Nhuộm
Phụng Hoàng Cung…. Còn nói về thể loại bài ca thì ôi
thôi, các loại như Mẫu Tầm Tử, Khổng Minh Tọa
Lầu, Hướng Mã Hồi Thành, Bình Bán Vắn, Thủ
Phong Nguyệt… tụi tôi ca cũng có hạng và thường
thì chiều chiều tụ lại ba bốn đứa chia
vai mà ca mà hát.
Lúc nầy mấy rạp
hát thường được đoàn lớn về đóng là rạp Nguyễn Văn Hảo ở
đường Galliéni, góc với đường Dixmude,
gánh nhỏ hơn chút xíu thì về trụ 1, 2 tuần ở
rạp Aristo, tức Trung Ương Hí Viện
ở đường gì đó ngó vô ga xe lửa Sàigòn, rạp
Tân Tiến xéo xéo với đình Cầu Muối vùng chợ
Cầu Muối. Rạp Văn Cầm ở đường
Lacaze, tức Nguyễn Tri Phương sau nầy mà có một
hai lần tôi rán đi bộ theo tụi nó tới để
xin giấy prô-gram rồi khi về bị cô tôi giảng
mo-ran hai ba giờ đồng hồ, đứng bắt mỏi
chưn…
Rồi thì những gánh
như Tỷ Phượng, Phụng Hảo, Tiếng Chuông, Phước Chung, Thanh
Hương Văn Chung rồi Thanh Hương-Hùng Minh… kể cả những
chuyện nho nhỏ liên quan tới đào kép chúng tôi
nhiều khi cũng nghe, cũng biết. Thằng Thìn không
hiểu từ đâu mà học được câu hát “Bửu Tài là rễ bầu Cao,
Cải vã với vợ là đào Cẩm Vân”, nó ê a câu
nầy hoài bên tai bọn tôi tới nỗi hơn sáu
mươi năm nay tôi còn nhớ. Còn thằng Dần
lớn con nhứt bọn thì khen không tiếc lời “Coi em
bé Juliette Nga bận áo đầm trước khi đoàn
Hậu Tấn Năm Nghĩa của ba mở màn, ra trình diễn một bản Hành Vân hay
Mẫu Tầm Tử hoặc Khổng Minh Tọa Lầu hay
một hai câu vọng cổ thì bữa hôm đó về phụ
má nó bán gạo rất là hăn hái. Cái thằng lớn mau như
thổi, có nhiều giấy quảng cáo nhứt, có lần
nó đi coi cọp về bị đòn vậy mà ngày sau bô bô
về chuyện em bé Hương Lan ca mùi đứt ruột,
bỏ xa Thần đồng Quốc Thắng bên tân nhạc
của những kỳ Đại Nhạc Hội vốn cũng
được chúng tôi ưa thích.
Chúng tôi, những
đứa còn lại, chưa đủ lớn để
có tiền mua giấy vô cửa hay không đủ lém
để tự tin nắm tay một bà dễ tánh nào đó
theo vô rạp, vậy mà nhiều đêm rủ nhau 5, 6
đứa tới trước rạp nghe phát loa họ
vặn lớn những bài ca vọng cổ như Tôn Tẩn Giả Điên: “Úy trời đất ơi cái
nỗi đoạn trường! Cũng bỡi vì tôi quá tin
thằng Bàng Quyên là bạn thiết với tôi cho nên ngày hôm
nay mới ta nông nỗi… nó đành tâm chặt đứt
một bàn chưn tôi... còn như công
cuộc ngày hôm nay đây….” Mà hễ mỗi lần
thằng Dần ca, dầu cho nó vô tình hứng chí ca chơi
hay cố ý châm chọc thì thằng Thới què anh của con
Hiền, con nhỏ nhí thường lẻo đẻo theo tôi
nắm tay bắt chia giấy program tôi xin hay giựt
được, đều nổi máu quạu lên
rượt nó chạy có cờ, trước khi bắt đầu
rượt thằng Thới đều chụp đại
một cái chổi lông gà của ai đó quơ quơ coi bộ
ngầu lắm… Sớm quá thì chưa vô được dầu
là đã bắt đầu màn hai. Mấy đứa tôi lang
thang ăn cóc, ăn ổi cho rẽ tiền, chờ
tới chừng 11 giờ, màn ba bắt đầu, đợi
chú gát cửa nháy mắt nói ‘thả
dàn’ rồi quay lưng đi vô, chúng tôi vén màn cửa chạy
ùa vô coi cọp vớt vát lớp chót. Khúc nầy
thường là hội ngộ, trùng phùng, vinh hiển,
đào kép ôm nhau cười vui sau khi hoạn nạn đã
hết. Chàng vinh hiển làm quan lớn, hai ba vợ, nàng cực
khổ ngày xưa trở thành mệnh phụ phu nhơn, cô
tỳ nữ trung thành nhiều khi được thưởng
làm vợ hai…. trước khi màn nhung kéo lại có gắn
tấm bảng đề chữ Vãn và nhạc ò e rô be đánh đu tạt
dzăng nhảy dù, zo rô bắn súng phát lên. Tiếng
guốc giày lốc cốc trên đường nhựa rôm
rả một hồi rồi trả sự êm đềm
của đêm lại cho Sàigòn thanh bình tạm bợ vì
tiếng súng lẻ tẻ còn ở quá xa. Chuyện thanh bình
của nước nhà tuy chưa có nhưng súng đạn vẫn
ít bén mản tới thành phố…
Vậy mà thỉnh
thoảng khán giả cũng ăn mảng cầu lửa, hết lựu đạn liệng lên sân khấu rạp
Nguyễn Văn Hảo khiến kép Duy Lân phải bị
cụt giò, tới cà na bay
lên hàng ghế thượng hạng ở tạp Aristo
khiến vài ba ông bà nhà giàu mất mạng. Gánh nào lảnh
đạn thì khốn đốn vài ba bữa rồi cũng
đứng dậy khai trương tuồng với phong cách
mới. Những tuồng phong vị Ba Tư Ngàn Lẽ
Một Đêm huyền ão diễm tình ra đời với
đủ thứ đèn màu xanh đỏ vàng tím, những
tuồng hiệp khách bay lộn bằng dây móc kéo lên quay vòng
vòng trên sân khấu xuất hiện. Thời nầy
người ta chú trọng tới tuồng tích ly kỳ, cảnh
trí huyền ão, xiêm y rực rỡ. Sự ca diễn chỉ
là thứ yếu.
Rồi thì những năm gần
giữa thập niên 50, gánh Kim
Chung, Tiếng Chuông Vàng Thủ Đô đóng đô quanh
năm ở rạp Aristo với kép đẹp Huỳnh
Thái, Ngọc Toàn, đào thương Bích Hợp, đào
diễn Kim Chung, các đào kép phụ chuyên làm hề
đồng, làm tỳ nữ như Túy Định, Thúy
Liệu, Phúc Lai, Tư Vững, Ba Hội chuyên diễn
những tuồng tích phong vị Trung Hoa gần giống
như trong các truyện thơ Nôm của thế kỷ
trước mà nhơn vật thường là giai nhơn tài
tử, với những mối tình thi vị, trong sáng của
soạn giả Phong Trần Tiến.
Vậy mà tuồng nào tuồng
nấy ăn khách quá chừng, đêm nào
rạp cũng chật ních. Thời nầy an ninh trong thành
phố đã vững, lựu đạn giết dân của
mấy ông trời con ngoài bưng vô không còn dịp tung hoành
nữa, gánh Kim Chung sau đó dời sang rạp Olympic ở
đường Chasseloup Laubat rồi phát triển thành 2,
rồi 3. Người coi cải lương chuyển từ
từ sang thích giọng ca, cách diễn… Út Trà Ôn, Út Bạch
Lan, Bạch Tuyết, Thanh Nga, Diệu Hiền, Ngọc Giàu,
Ngọc Nuôi, Út Hiền, Út Hậu, Tấn Tài, Thành
Được, Thanh Sang, Hữu Phước… mỗi
người mỗi vẽ, mỗi làn hơi, không ai
giống ai nhưng người nào cũng có giọng ca
trời cho, ru hồn người nên hái ra tiền và có
thể nói là góp phần đưa cải lương lên vòm
trời cao của nghệ thuật. Lúc nầy giấy prô-gram
cải lương hình như đã hết, chúng tôi hơi lớn
lớn, bắt đầu chuyển sang sưu tập
pro-gram của ci-né, cũng in bằng giấy màu của rạp
Vĩnh Lợi, Lê Lợi, Eden… đặc biệt viết bằng
hai thứ tiếng Việt và Pháp. Chúng tôi bắt đầu
làm quen với tên tuổi đào kép của thế giới văn
minh bắt đầu từ đây.
Trong hoàn cảnh đó
giải Thanh Tâm ra đời xác nhận tài năng ca
diễn của đào kép nên nghệ nhơn càng cố
gắng trau dồi thêm. Cải lương bước
những bước đi bảy dặm, chỉ trong vòng
10 năm trước 1975 mà tiến bộ hơn mấy
lần ba thập niên trước đó…
Sống ở Sàigòn từ
nhỏ vậy mà tôi chỉ còn nhớ lỏm bỏm có
vậy về cải lương. Quá khứ của bộ
môn nầy vượt khỏi trí nhớ của tôi và
của biết bao nhiêu người khác dầu họ sanh ra
và sống mãn đời suốt kiếp ở Sàigòn với
chung quanh gần cả chục rạp và
sự đi về của mười mấy đoàn
lớn nhỏ. Huống chi cải lương còn mọc
rễ và phát tán ra ở các tỉnh miền Hậu Giang
nữa. Ai dám tự hào mình biết hết bước
đường của môn nghệ thuật mới nầy?
Năm ấy Sàigòn đổi
chủ, chủ mới thuộc phe của những người
đã liệng lựu đạn vô khán giả yêu thích cải
lương ngày xưa. Tôi đi tìm lại chút quá khứ mờ
nhạt của mình vì đã rời xóm chợ hơn 10 năm
nay. Dần đã đi Mỹ, thằng Thới què đã
chết, mấy thằng Ri, thằng Mẹo đứa thì
già cỗi, răng sún đưa càng, đứa thì lưu
lạc hà phang bất biết. Vậy mà tôi gặp lại
con Hiền. Con nhỏ lúc nầy đã gần ba mươi
tuổi, không có chồng, mời tôi vô cái sạp bán guốc
của nó, đưa cho tôi coi hai xấp program cải
lương ngày cũ. Tôi nắm xấp giấy ngày xưa
mình thân thiết, mơ ước, ngồi như mơ,
nhớ lại thời gian cách đó hơn hai mươi
năm...
Thằng Ri bặm trợn cầm
một tấm ván mỏng tháo ra từ cái thùng đựng
củ hành tây nhập cảng của tiệm đường
nhà nó, dí dí vô mặt của con Hiền hét lớn:
Trảm bạch mã
tế thiên!
Tru hắc ngưu tế
địa!
Giết giết!
Con Hiền né né tránh thì thằng Mẹo ở đâu
lại xía vô, tay cầm ngược chổi lông gà làm
kiếm:
Sát nhứt miêu cứu
vạn thử cho xong,
Bão vì Liêu mà Bảo phải
lụy tàn…
Rồi nó chặt mạnh xuống trước
mặt con nhỏ như là chặt đầu ông vua
nước Liêu mà chúng tôi thường đóng vai ca hát.
Con Hiền sợ quính quáng,
chạy tới ôm tôi cứng ngắt. Tôi hơi
sượng sùng, nhưng làm bộ tỉnh queo, ra mặt
anh hùng rầy tụi kia không được ăn hiếp
con gái nữa…
Mấy bữa sau tôi giúp con
Hiền ngồi sắp xếp lại đống giấy
chương trình mà chị Hai nó liệng ra ngoài vì choáng
chỗ, nó vừa xếp, vừa đưa tay gạt cho
giấy bớt nhăn nhúm vừa quẹt nước
mắt nói khiến tôi giựt mình:
“Nữa lớn Hiền làm
vợ của Sang rồi hai đứa mình đi hát cải
lương.”
Tôi ngó ngay vô ngực nó,
cặp mắt như là chê. Nó biết ý cũng dòm xuống
ngực mình, quả quyết:
“Bây giờ chưa, nhưng
lớn lên cũng có chứ bộ!”
Tiếng chứ bộ của nó tôi thương quá
chừng, nhưng mới 11, 12 tuổi tôi còn ghét con gái
lắm, tôi bảo vệ con Hiền vì tánh anh hùng của con
trai hơn là vì thích nó, tôi nạt phũ phàng:
“Thôi mầy! Chị Hai mầy
thấy mặt tao là đuổi đi chỗ khác chơi,
vô nhà mầy ở chắc chỉ đánh chưởi
tối ngày… với lại…” Tôi lại ngó vô ngực nó
rồi chỉ vô mình một cô đào Mỹ nào đó.
Con nhỏ đỏ
mặt lại ngó xuống ngực mình không nói gì…
Tôi hỏi con Hiền còn
nhớ hồi nó ôm tôi và câu chuyện trao đổi lúc hai
đứa xếp lại những tờ giấy nầy không.
Nó nói nhớ chớ sao không, người
ta quên thì có!
Tôi làm thinh lâu lắm mới
bào chữa:
“Đời trai, học hành,
lính tráng, sự nghiệp… làm cho mình quên đi quá khứ rất
đáng yêu của thời tuổi trẻ. May mà Hiền còn giữ quá khứ của chúng
ta qua những tờ chương trình nầy.”
Tôi vừa nói vừa chỉ
vô bút tích của mình ngày xưa phân vai cho những nhân vật
trong quyển tuồng cải lương Hoàng Tử Lưng Gù mà tôi với Hiền thủ
vai tình nhân của nhau.
Con nhỏ phản đối
ngay:
“Sang có vợ con rồi,
đừng nói vậy, Hiền chỉ
giữ gìn quá khứ của
cải lương thôi, không giữ
gìn quá khứ của chúng mình.”
Câu nói của con Hiền không
biết tại sao tôi thấy đáng giận hơn là đáng
thương. Tôi nói năm ba câu nữa rồi từ giả,
lòng chẳng lưu luyến gì.
Gần bốn mươi năm
rồi mà tôi
vẫn còn bực
mình khi
nhớ tới câu nói của con Hiền ngày
nọ “chỉ giữ
gìn quá
khứ của cải luơng thôi”. Nó nói
đặng nói được mà có
giữ gì đâu, trách nó thì cũng
tội, có trách chăng là trách sự
vô tâm vô tình của cả một xã hội, của
nhóm người tự xưng là trí
thức khoa bảng, luôn hô hào “phát huy và bảo tồn văn hóa dân
tộc” nhưng cứ trơ mắt ếch
để nhìn nền văn hóa ngày càng
xuống cấp thảm hại mà trong đó cải
lương là sinh hoạt nghệ thuật đáng trân trọng
của Miền Nam nay đã bị giết đi, chết tức tưởi vì nhiều
nguyên nhân…
Thầy Nguyễn
Văn Sâm
(Alexandria, LA, những ngày
sắp chớn Đông 2013.)