Giá trị dinh dưỡng của Rong Biển và
Rau Má
Nguyễn
Hồng Phúc
Rong biển (seaweed)
Phỏng theo bài tường
tŕnh của giáo sư Subhuti Dharmananda, Ph.D Viện Nghiên cứu
Y khoa Đông phương – Portland Oregon và Dr. Ryan Drum
Hiện
nay có 4 loại rong biển (seaweed) chính được dùng
trong việc chữa bệnh đông y:
- Loại Laminaria (c̣n gọi là kelp
hay haidai), một loại
rong có màu nâu
- Ecklonia có màu xanh hay c̣n gọi là kunbu
- Loại Sargassum có màu nâu c̣n được gọi là haizao.
- Loại Pyrphora có mào đỏ là nguồn
của zicai (nori để bao
sushi).
Rong biển
hút nhiều chất dinh dưỡng từ ḷng đại
dương cho nên chứa đựng hơn 36% chất
khoáng trong trọng lượng của nó. Những chất khoáng này gồm có soldium, calcium,
magnesium, potassium, chlorine, sulfur và phosphorus; và chất dinh
dưỡng cực nhỏ như iốt (iodine), sắt,
đồng, selenium, molybdenum, fluoride, manganese, boron, nickel và
cobalt.
Chất iốt
(iodine) có nhiều trong rong biển
và là chất dinh dưỡng tuyệt vời cho tuyến
giáp (thyroid) v́ nếu thiếu iốt (iodine) sẽ dễ
sinh ra bướu cổ. Lượng iốt chứa
nhiều nhất trong rong màu nâu (kelp
hay laminaria) từ 1500 ppm
đến 8000ppm (1 phần triệu) trong khi đó rong màu
xanh và đỏ chỉ chứa từ 300ppm đến
300ppm mà thôi nhưng cũng là quá cao so với tất cả
cây thực vật. Một thanh niên khỏe cần hấp
thụ 150 micro g mỗi ngày, như thế chỉ cần ăn một ít rong biển th́ đă đủ.
Chỉ cần 1 gram rong màu nâu đủ cung cấp từ
500 micro g đến 8000 micro g iốt rồi, ngay đến
rong màu xanh và đỏ dùng để bao sushi cũng cung cấp
từ 100-300 micro g iốt cho mỗi gram. Trong thức ăn của Nhật họ đều cho vào
hơn 1 gram rong biển mỗi ngày. Nhiều nghiên cứu
cho thấy cơ thể con người hấp thụ dễ
dàng lượng iốt lớn v́ tuyến giáp (thyroid) rất
cần cho mô tế bào. Đa số nhân loại
trên thế giới hiện nay không dùng đủ lượng
iốt v́ cây thảo mộc trên lục địa chứa
quá ít iốt. Ngay nhiều quốc gia phải
thêm iốt vào muối biển để cung cấp lượng
tối thiểu về iốt. Vài nước
đang phát triển như Trung quốc và Ấn Độ
vẫn c̣n dùng lượng thấp iốt.
Ngoài chất iốt
rong biển c̣n chứa nhiều calcium nhưng ít hơn so với
lượng iốt. Chất calcium chứa trong rong biển
độ 4%-7% và với lượng này th́ 1 gram rong biển
cho 70 mg calcium khô trong khi con người cần 1000 mg calcium
mỗi ngày. Nhưng rong biển chứa nhiều
calcium hơn tất cả thực phẩm không từ sữa.
Lượng chất đạm
(protein) chứa trong rong biển tùy theo
màu, chẳng hạn như rong nâu chứa 5-11% trong khi đó
rong đỏ chứa đến 30-40% và rong xanh có 20% chất
đạm. Một vài loại rong cực nhỏ
(microalgae) chứa đến 70% chất đạm như sprirulina.
Hàm lượng
sinh tố A (carotene 20-170ppm) trong rong biển cao gấp 2-3 lần
so với cà rốt.
Vitamine C (500-3000ppm) trong rong
biển nâu và đỏ là chất dinh dưỡng rất cần
thiết cho sự trao đổi chất của tế bào,
thúc đẩy sự h́nh thành collagen trong cơ thể, làm vết
thương mau lành và có tác dụng pḥng chảy máu chân
răng. Vitamine B12 trong rong biển có tác dụng
tham gia truyền dẫn trong quá tŕnh ôxy hóa của cơ thể.
Nếu cơ thể thiếu vitamin B12 kéo dài sẽ
gây rối loạn trao đổi chất của các tế
bào.
Ngoài ra, rong biển
c̣n chứa DHA, calcium và một số dưỡng chất
khác cần thiết cho sức khỏe. Acid fat béo (1-5%)
trong rong biển có tác dụng thúc đẩy cơ thể
thải loại cholesterol, khống chế lượng
cholesterol trong máu, từ đó ngăn ngừa bệnh cao huyết
áp và bệnh tim mạch. Chuyên
gia Thẩm mỹ cho rằng rong nâu kelp có tác dụng thải chất fat trong cơ thể
không phải v́ rong nâu không chứa fat và ít calorie – một lá
rong biển nori bao sushi chỉ chứa 12.6 calo. Một
giáo sư đại học Newcastle về tế bào học,
ông Jeff Pearson cho biết: ”Vài loại thuốc làm giảm cân
bằng cách ngăn ngừa enzyme làm tan mỡ có thể làm
giảm lượng mỡ thải vào ruột già, nơi
đó mỡ sẽ tiêu hóa với vi khuẩn làm ph́nh ruột
ra. Trong khi đó rong biển cũng ngăn chận enzyme tan
mở nhưng không gây triệu chứng phụ”. Cuộc sống ngày nay ai cũng sợ các thực
phẩm giàu cholesterol, nguyên nhân gây nên bệnh béo ph́. Vậy nên các thực phẩm với hàm lượng
calo thấp, nhưng vẫn đảm bảo ngon miệng
như rong biển đang rất được coi trọng.
Các gia đ́nh nên áp dụng món canh hay juice rong biển trong thực
đơn hàng ngày của ḿnh. Rong biển c̣n
chứa dồi dào chất antioxydant, vitamins B1 (làm năo hoạt
động tốt), B2 (giúp cơ thể hấp thụ sắt
dễ dàng) và B12.
Người
ta dùng nhiều rong màu nâu (porphyra)
trong thức ăn. Tiếng Tàu gọi là zicai nhưng
khi chuyển thành bánh tráng th́ người Nhật gọi là nori dùng để cuốn sushi
hay bán ra như thức ăn nhẹ
snack.
Rong biển có vị mặn
nên dễ đánh tan đờm trong cổ. V́
rong biển rất nhẹ nên rất tốt để chữa
người bị tuyến giáp. Bệnh
nhân suy tuyến giáp v́ thiếu quá nhiều iốt, rong biển
là nguồn dồi dào iốt nhất. Thiếu
iốt nhiều sẽ có nguy cơ mắc bướu cổ.
Chúng ta hoặc con cái chúng ta
có thói quen mua potato chips trong bọc để ăn
vặt. Potato chips không những làm béo ph́ v́ chứa nhiều
lượng cholesterol. Chúng ta tập dần thói quen mỗi
ngày bằng cách thay thế potato chips bằng một ít rong
biển khô gói trong bao. Lúc đầu vị
rong biển hơi khó ngửi nhưng dần dà rồi chúng
ta sẽ quen. Nếu t́m cách nấu canh với
rong biển lại càng tuyệt vời chẳng những tốt
bổ dưỡng sức khỏe mà c̣n ngừa được
nhiều thứ bệnh.
Dưới góc nh́n của y
học hiện đại, rong biển là loại thức ăn thường được dùng phối
hợp trong thực đơn cho những người béo
ph́, người mắc bệnh tiểu đường,
người cao huyết áp và người bị suy tuyến
giáp trạng.
Rau má (Centella
Asiatica) để giải độc và chống lăo hóa
Theo
y học cỗ truyền, rau má có vị đắng, hơi
ngọt, tính b́nh có tác dụng dưỡng âm, thanh nhiệt,
nhuận gan, giải độc, lợi tiểu.
Rau má thường dùng để làm thuốc bổ
dưỡng, sát trùng, chữa thổ huyết, tả lỵ,
khí hư, bạch đới, mụn nhọt, rôm sẩy.
Từ những năm 1940, y học hiện
đại bắt đầu nghiên cứu những tác dụng
của rau má. Rau má có những hoạt chất thuộc
nhóm saponins (c̣n được gọi là tripernoids) bao gồm
asiaticoside, madecassoside, madecassic acid và asiatic
acid. Hoạt chất asiaticoside đă được ứng
dụng trong điều trị bệnh phong và bệnh lao. Người ta cho rằng trong những bệnh
này, vi khuẩn được bao phủ
bởi một màng ngoài giống như sáp khiến cho hệ
kháng nhiểm của cơ thể không thể tiếp cận.
Chất asiaticoside trong dịch chiết rau má có thể làm
tan lớp màng bao này để hệ thống miển dịch
của cơ thể tiêu diệt chúng.
Rau má là một
cây loại thảo, nhiệt đới đă được
sử dụng trong các điều trị dân gian để
trị một số bệnh như phỏng, bệnh về
tĩnh mạch, và ung loét ngoài da (ulcer). Các nghiên cứu
khoa học đă xác nhận dùng rau má bằng cách uống
hay thoa đắp ngoài da giúp vết thương mau lành, kể
cả các vết thương khi giải phẫu, các vết
lở loét ung nhọt và cả vết lở do bệnh cùi (Indian Journal of Pharmacology Số
28-1996). Rau má được dùng uống để trị
các bệnh về tĩnh mạch như sa
tĩnh mạch ở chân, sưng phù. Dạng chế phẩm
thông dụng nhất là: Phần trích triterpene tổng cộng
được tiêu chuân hóa (Standardized total triterpenic fraction =
TTFCA) chứa asiatic acid (khoảng 30%),
madecassic acid (khoảng 30%) và asiaticoside (khoảng 40%) (asiaticoside là một glycoside của asiatic acid).
Liều uống của TTFCA thường từ 50 đến
180 mg mỗi ngày (liều này thường được
cơ thể dung nạp rất tốt).[1]
Ở Ấn Độ, rau
má c̣n được gọi là Brahmi (Gotukola) hàm nghĩa với
một loại dược thảo có thể giúp con người
tiến sự ḥa hợp tâm thức vũ trụ (knowledge
of the supreme reality). Do đó rau má luôn là một phần ăn
của thiền sư và nhà thông thái. Thực
ra rau má tác dụng đến hoạt động hệ thần
kinh trung ương và giúp cải thiện trí nhớ của
người già. Người ta cho rằng
rau má có hiệu quả tốt với bệnh Alzheimer nhờ
vào chất asiaticoside có khả
năng bảo vệ các tế bào thần kinh khỏi tác
động của các độc tố beta-amyloid. Rau má được
dân bản xứ dùng để chữa trị bệnh phong
hủi, bệnh da nhăn và cũng làm tăng cường
trí nhớ.
Rau má c̣n là một loại
rau thông dụng có tác dụng sát trùng giải độc ở
vết thương, thanh nhiệt lương huyết.
Ngoài ra, rau má cũng là một loại dược thảo
có tính bổ dưỡng rất cao, có nhiều sinh tố,
khoáng chất, những chất chống oxy hoá, có thể
dùng để dưỡng âm, cải thiện trí nhớ,
làm chậm sự lăo hoá, cải thiện vi tuần hoàn và chữa
nhiều chứng bệnh về da. Tùy theo
khu vực trồng hoặc mùa thu hoạch tỷ lệ các
hoạt chất có thể sai biệt. Thành phần của
rau má bao gồm những chất sau: beta caroten, sterols,
saponins, alkaloids, flavonols, saccharids, calcium, iron, magnesium,
manganese, phosphorus, potassium, zinc, các loại vitamins B1, B2, B3, C
và K. Đối với da, nhiều công tŕnh nghiên cứu và kết
quả đều cho thấy dịch chiết rau má có khả
năng kích hoạt các tiến tŕnh sinh học trong việc
phân chia tế bào và tái tạo mô liên kết giúp vết
thương chóng lành và mau lên da non. Hiện nay rau má đă
được sử dụng rất đa dạng dưới
h́nh thức thuốc tiêm, thuốc bột, thuốc mở
để điều trị tất cả các chứng bệnh
về da như vết bỏng, vết thương do chấn
thương, do giải phẫu, cấy ghép da, những vết
lở lâu lành, vết lở do ung thư, bệnh phong, vẩy
nến…
Đối với tuần
hoàn huyết, những hoạt chất của rau má có tác dụng
cải thiện vi tuần hoàn ở các tĩnh mạch, mao
mạch, bảo vệ lớp áo trong của thành mạch và
làm gia tăng tính đàn hồi của mạch máu. Do đó
rau má cũng thường được dùng trong các chứng
tăng áp lực tĩnh mạch ở các chi dưới.
Trong nghiên cứu về khả
năng chống ung thư của rau má, kết quả ghi nhận
là liều cho uống một dịch chiết rau má chứa
lượng cao triterpinoid 1 gram/kg trong 5 ngày, uống cách nhật,
ức chế được sự tăng trưởng của
ung thư bướu và kéo dài được thêm thời
gian sống của chuột bị chích tế bào ung thư
lymphoma vào cơ thể. Sự ức chế rơ rệt
hơn khi thí nghiệm trên chuột được cho dùng dịch
chiết rau má trước khi bị chích tế bào ung
thư vào cơ thể, kết quả không rơ rệt khi bắt
đầu cho chuột dùng dịch chiết rau má 10 ngày sau bị
chích tế bào ung thư. Liều tương
đương để áp dụng nơi người là
vào khoảng 4.8 gram/ngày. Trong nghiên cứu này hoạt
tính ức chế bướu ung thư có lẽ không do tác
động diệt bào nhưng do tác động gián tiếp
vào ức chế bướu do gây ra t́nh trạng giảm
cường độ thẩm thấu của mạch máu[2].
Theo khuyến cáo của bộ
Sức Khoẻ Canada có cảnh cáo về những thực vật
làm thuốc nhập cảng từ các quốc gia thứ ba
như Brasil, Trung quốc và Ấn độ rằng chúng ta
nên thận trọng khi dùng những loại thuốc làm từ
thực vật như rau má v́ những nghiệm xét cho thấy
đa số thuốc đông dược (herbal medicine) chứa
nhiều độc tố như cadmium, lead và mercury (thủy
ngân) từ 2 đến 10 lần lượng mà cơ thể
con người có thể tiếp nhận theo An Exporation of Current Issues in Botanical
Quality of Allison R. McCutcheon issued at February 27, 2002.
Ngày nay nhiều loại thuốc
thiên nhiên (natural medicine) hay đông y được chế tạo
để thay thế thuốc tây cho nhiều căn bệnh.
Càng ngày chúng ta thấy rau má được chế biến
dưới nhiều h́nh thức thương mại như
cream dưỡng da, thuốc viên hoặc nước như
hăng Amruta Herbals Pvt Ltd Ấn Độ hay Indena – Milano Ư đại
Lợi, v.v… Họ cho rằng thuốc biến chế từ
rau má (centella asiatica) có thể ngừa hoặc chữa những
bệnh như sau[3][4]:
Anti-oxydant ngừa ung
thư.
Chống và ngừa
viêm gan (hepatitis).
Giúp vết
thương chóng lành, vết bỏng hay ghẻ lở.
Khử trùng và
giải độc.
Bệnh khô da hay da nhăn
trên mặt
Kích thích sự tiêu hoá, nhuận
gan, nhuận trường, lợi tiểu và tăng cường
sức đề kháng của cơ thể, v.v...
Chúng ta không phủ
nhận rau má có nhiều giá trị dinh dưỡng và chữa
trị. Như tất cả các loại
thuốc khác mỗi thứ đều có tác dụng mạnh
và hữu hiệu vào một bộ phận nào đó của
cơ thể nhưng không v́ thế mà chữa khỏi hết
tất cả bệnh. Bạn không nên tự chữa
khi mắc phải những căn bệnh khó trị, tham khảo
ư kiến bác sỹ vẫn là điều cần thiết.
Rau má dễ trồng
như cỏ dại. Chúng ta chỉ cần
ra phố Trung Hoa mua hạt giống rau má về trồng
sau vườn. Không nên mua rau má khô hay tươi nhập
cảng có nhiều nguy cơ do thuốc sát trùng và phân bón gây
ra. Xay nát rau má để làm nước giải lao cho cả gia đ́nh vào mùa hè th́ tuyệt vời.
Có thể để trong tủ lạnh nhiều
ngày để dùng như orange hay apple juice, vừa bổ vừa
ngừa bệnh vừa ngon vừa rẻ tiền.
Nguyễn Hồng Phúc –
sưu tầm & nghiên cứu
Tài liệu tham khảo:
[1] http://www.yduocngaynay.com/8-8TK_TrVHung_RauMa.htm
[2] http://centella-asiatica.101herbs.com/
[3] Centella Asiatica selected
Triterpenes – A highly standardized natural remedy for the maintenance of an
healthy venous system – Indena – 20139 Milano Italy Tel: 0257496.1
[4]
http://explorepharma.wordpress.com/2010/09/30/centella-asiaticabrahmi