Con Thuyền Không Đến
Người Hai Lúa New Jersey
(Để tưởng nhớ
đến vong linh song thân. Với lòng tri ân các Ngài đã không bỏ rơi con cái trong chốn
lao tù cộng sản khốn khổ.)
Trả
tiền cho anh tài xế Honda ôm xong, Thắng đã vội vã
bước vào nhà chú Sáu. Thím Sáu đã
hoảng hốt nhìn anh, vì mỗi lần anh xuất
hiện bất ngờ như thế này thường là có
chuyện quan trọng. Nếu không
phải là đang bị săn bắt, thì cũng là
để báo cho chú Sáu của anh khẩn cấp chuẩn
bị “ra khơi”.
Thắng
chậm rãi nói với chú Sáu của anh, “Ngày mai cháu 'đánh'
chuyến nữa. Nếu chú thím đồng ý thì chú
để thím và hai em ở lại, và sáng mai lên
đường sớm với cháu!”. Thím
Sáu rươm rướm nước mắt, “Chín năm
trời lặn lội thân cò nuôi chú trong chốn lao tù, không
lẽ giờ này thím để chú lao vào cõi chết một
mình hay sao?”. Chú Sáu
ngước mắt nhìn Thắng chờ đợi câu
trả lời. Thắng nói vắn
tắt, “Thôi thì phó mặc cho số mệnh. Mình
sẽ lên đường sáng mai”.
Đúng 4 giờ sáng hôm sau,
Thắng đáp chuyến xe sớm
về Sóc Trăng và hẹn gặp lại chú thím Sáu tại
nhà một người bạn. Đến Sóc
Trăng, anh dẫn chú thím Sáu đi gặp ông già Tám,
người tổ chức chuyến đi để
điều đình. Ông Tám phân công,
“Đúng ra Thắng phải lên 'cá lớn' trước
với bác Trí tài công để phụ với bác ấy
một tay. Nay có thêm thím Sáu và hai
đứa nhỏ, thôi thì Thắng sẽ xuống taxi
tại ngã bảy với gia đình chú Sáu và sau đó sẽ
lên ghe lớn tại vàm Đại Ngải đêm nay
vậy”.
Khoảng giữa trưa
cùng ngày, đúng vào giờ tan chợ sáng tại chợ
nổi trên sông của thị trấn Phụng Hiệp.
Thắng ăn mặc lôi thôi y hệt
như một anh nông dân hai lúa chính hiệu. Tại
bến đò chính của thị trấn, Thắng đã
hướng dẫn gia đình chú Sáu “đổ quân”
xuống taxi. Thắng đã từng
dạy học như một giáo sư tư nhân dạy
giờ tại trường Trung học Thị trấn
tại địa phương này. Mặc
dầu đã hóa trang giống như một ông già, nhưng
để tránh gặp mặt người quen, Thắng
đã lủi thật nhanh xuống ghe nhỏ.
Taxi của Thắng
đến vàm Đại Ngải khi mặt trời chưa
tắt nắng. Thắng cho ghe nhỏ neo
lại để chờ đợi “cá lớn” xuất
hiện. Nghĩ đến chiếc ghe
neo lại tại chỗ rất dễ bị ghe địa
phương nghi ngờ, nên anh nói với chú tài xế taxi,
“Anh nằm ngủ một tí đi, để tôi nhảy
xuống tắm một chút”. Thắng
lặn hụp thỏa thích gần một tiếng
đồng hồ, mà vẫn chưa thấy tăm hơi
của mấy chiếc taxi khác đâu cả. Thỉnh
thoảng, mấy ghe câu tôm địa phương lại
gần hỏi thăm dò, “Chuyện gì mà mò lặn hoài dzậy
cha nội?”. Thắng đã
lên tiếng chửi thề cho hợp với dân đia
phương, “Bà mẹ nó! Có cái neo con vợ tui vo gạo nấu cơm làm rớt cha nó
xuống sông rồi. Mò hoài cũng không thấy đâu!”. Cũng may, hai đứa bé con chú Sáu sau khi
uống thuốc ngủ, vẫn còn ngủ rất say. Và rồi mấy chiếc ghe câu tôm cũng đã
lặng lẽ bỏ đi ngay sau đó.
Đến lúc
mặt trời đã lặn hẳn, tất cả các ghe
taxi khác cũng đã tập trung đầy đủ
tại điểm hẹn. Sau khi đã kiểm tra
đúng “mật hiệu” bằng những ánh đèn pin
được dặn trước, ông Tám cho tất cả
taxi đổ quân lên ghe lớn. Đúng
nửa đêm, “cá lớn” đã nhổ neo hướng
về biển Đông. Nhờ cửa sông Cửu Long
rộng mênh mông và bóng đêm che phủ bao la, nên đến
hừng sáng thì “cá lớn” đã hùng dũng rẽ sóng trên
biển Thái Bình Dương. Đây là lần thứ ba
Thắng đã cùng ghe lớn đi lọt ra tới
đại dương. Anh vội vã đưa tay lên làm
dấu thánh giá.
Khi mặt trời lên đã
khá cao, ghe của Thắng cũng đã chạy ra khỏi
sông Cửu Long khá xa và đang trên đường di chuyển
ngang phía Nam của Côn Đảo. Đây là vùng biển
cực kỳ nguy hiểm vì có rất nhiều đoàn ghe
quốc doanh với các bảng hiệu “Hậu Giang”, “Côn
Đảo”, “Chiến Thắng” thường đánh
bắt hải sản ở đây. Bất thình lình,
Thắng nhìn thấy qua ống nhòm, một chấm đen
từ xa đang di chuyển ngày càng gần đến con
tàu nhỏ bé của anh. Sau khi bàn bạc
với bác Trí, bác đã quyết định cho nổ thêm
máy phụ và cố gắng chạy hết tốc lực
về hướng hải phận quốc tế. Sau
hơn nửa tiếng đồng hồ rượt
đuổi, chiếc ghe quốc doanh đánh cá với lá
cờ máu bay phất phới trên mui, đã tới sát ghe
của Thắng. Ghe quốc doanh đã không cặp vào ghe
của Thắng ngay mà đã khai hỏa vài tràng súng AK nổ
chát chúa để thị uy. Có thể họ e ngại ghe
của anh có trang bị lựu đạn hoặc súng
ống gì chăng. Thêm nửa tiếng
đồng nữa với chuỗi đối thoại
chỉ nghe được loáng thoáng để “thương
lượng”. Bên phía ghe quốc doanh kèm với vài phát
súng thị uy là những câu chửi thề rặc accent
của dân Bắc Kỳ đồng chí, “Địt mẹ,
lũ chúng mày là lũ vượt biên
phản quốc đáng tội chết”. Ghe
quốc doanh ở trên đầu gió, còn ghe của Thắng
neo ở cuối hướng gió. Cho nên khi mấy anh
Bắc “đồng chí” chửi tục thì Thắng, dân
Bắc “há mồm” (Dân di cư vào Nam bằng tàu há mồm)
nghe rất rõ ràng. Tuy nhiên đến khi
Bắc “há mồm” mở miệng thương
lượng, thì Bắc “đồng chí” không nghe
được vì ngược hướng gió thổi.
Cuối cùng mấy anh Bắc “đồng chí” có thể vì
do tức giận, đã nổ máy húc mạnh mũi ghe vào
đít ghe của Thắng làm “giàn xề” bị nứt, và
nước bắt đầu rỉ vào ghe.
Sau khi đã húc chiếc ghe
vượt biên nhỏ bé một phát cho bõ ghét, đoàn quân
“chiến thắng” trên chiếc tàu đánh cá quốc doanh to
lớn dài trên 20 mét đã nhảy lên chiếc ghe
vượt biên. Vài tên tay cầm súng AK
lâu lâu lại nổ súng bắn “lấy le” một phát
để uy hiếp tinh thần “lũ phản động”
đang run rẩy như cầy sấy. Những tên còn
lại hai tay cầm hai cái giỏ đệm to
tướng để “vội vã vơ vẩn vào vơ vét
về” từ vàng vòng, hột xoàn, nữ trang, quần áo,
thậm chí cho đến mấy đồng bạc lẻ
của bà bán xôi thối lại cho thím Sáu, cũng
được các đồng chí vơ vét sạch sẽ.
Một cô học trò cũ của Thắng, lúc tên Bắc
“đồng chí” quát tháo cô chưa kịp trả lời,
đã bị hắn tát cho một bạt tai hộc máu
mồm, văng ra một cục nylon bên trong có mấy tờ
giấy bạc 100 dollars Mỹ. Tên thủy thủ khoái chí
cười nhe hàm răng… mã tấu ra vì đã “trúng mánh”
lớn. Thắng cũng bị lột
chiếc quần jean cũ mèm đang mặc trên
người. Anh ứa nước mắt thầm
nghĩ, “Đám hải tặc có 'giấy phép' này nếu mà
tụi nó dám hãm hiếp đồng bào của mình thì có khác
chi hải tặc Thái Lan?”.
Sau khi đã “thu hoạch”
hết tất cả “chiến lợi phẩm” trên chiếc
ghe nhỏ bé của “lũ phản động”, đoàn quân
“chiến thắng” đã nhanh chóng rút lui. Một tên trong
bọn đã nhe hàm răng vẩu mã tấu ra huênh hoang,
“Chúng mày đã chơi đẹp với chúng ông, nên thôi thì chúng ông để cho chúng mày
được tiếp tục ra khơi”. Thắng
đưa mắt ngước nhìn sang phía chiếc tàu
quốc doanh đánh cá để ghi nhớ trong đầu
số tàu. Tuy nhiên lũ ăn cướp “cháu ngoan Bác
Hồ” này chắc đã từng ăn hàng chuyên nghiệp
rất nhiều lần, nên đã ranh ma dùng mấy chiếc
bao bố tời để che đi mất bảng số
tàu của bọn chúng.
Thắng đau đớn
nhớ lại câu ca dao truyền khẩu:
”Con ơi
nhớ lấy câu này
Cướp đêm là
giặc, cướp ngày là quan”.
Câu ca dao trên muôn đời
sẽ là một chân lý, nhất là trong thời đại
HCM của nước CHXHCH Việt Nam . Sau khi đám “hải tặc có giấy phép” rút lui,
Bác Trí và Thắng đã đi coi kỹ lại tình trạng
hư hại của ghe lớn. Đít
ghe bị nứt khá lớn. Thắng đã kêu gọi
mấy anh thanh niên thay nhau dùng thùng và thau, chuyền tay tát nước ra cho ghe khỏi chìm. Bánh lái tàu đã bị tàu quốc doanh húc cho
rớt ra và đã bị sóng đánh trôi giạt đi
mất. Bác Trí đã lấy hai cái đòn
dài, dùng để bước lên xuống, đóng lại
thành bánh lái tạm thời. Có một vài
bác lớn tuổi đã từng ở tù CS như Thắng,
đã nêu ý kiến rằng tại sao không tiếp tục
chạy ra hải phận quốc tế mà lại quay
trở về đất liền. Thắng
rớt nước mắt phân trần, “Tàu chúng ta sẽ
bị chìm trong vòng vài ba tiếng đồng hồ nữa
nếu như không gặp được tàu quốc tế
cứu vớt. Trở lại
đất liền chắc chắn sẽ ngồi tù,
nhưng vẫn còn sống sót để tiếp tục ra
khơi nếu ta còn có cơ hội”.
Nhờ xuôi gió
và thuận sóng, “con thuyền không đến” đã trở
lại được đất liền trước khi
trời sụp tối. Lúc đó
nước triều đang lên, nên sóng đã xô một phát
thật mạnh đẩy con cá lớn lên phía trước
nằm luôn trên bãi cát ven biển của huyện Vĩnh Châu.
Mấy người dân địa phương sống
tại ven biển đang đi nhặt củi tại mé
rừng gần đó, đã chạy ùa đến
để “chia vui” với “con thuyền không đến”.
Họ nhấn mạnh, “Các anh vô cùng may mắn. Nếu sóng
không xô tàu các anh vướng lên bãi cát mà lại xô tàu
ngược ra khơi, thì chỉ vài ngọn sóng nữa là
tàu các anh đã bị lật úp, và các anh đã chết
đuối hết cả rồi”.
Họ chỉ cho Thắng
thấy hàng chai lọ được cắm ngược
đầu dọc theo bãi cát trên mé rừng và giải thích
đó chính là bia mộ của các thuyền nhân trên các “con
thuyền không đến”, đã không may mắn
được sóng xô hẳn tàu lên bãi như tàu của Thắng.
Những người nông dân nói thêm là trong mùa sóng to gió
lớn này, họ hay kéo nhau ra bờ biển để
lượm xác những thuyền nhân vắn số
được sóng xô giạt trôi vào bờ. Họ đã
giúp chôn cất những thuyền nhân này và thu
lượm những gì còn sót lại trên người
của những người đã chết, từ tư
trang cho đến giấy tờ tùy thân đã
được bọc nhựa. Trong những chai lọ
được cắm ngược xuống cát, chính là
chứng minh nhân dân hoặc giấy căn cước VNCH,
căn cước quân nhân của những người
đang vùi thây dưới bãi cát vàng ven biển. Một người hỏi thăm Thắng quê quán
ở đâu. Khi Thắng nói anh dân
Cần Thơ thì Bác ấy đã nói, “Mấy năm
trước, Bác có giúp chôn cất một xác chết.
Khi móc trong quần áo ra có tờ căn cước quân nhân
ghi tên thiếu tá Bác sĩ Quân Y Đoàn Trọng T. Nơi
tùng sự của ông là Trung Tâm Chỉnh Hình Cần Thơ”. Thắng đã ứa nước mắt vì Bác
sĩ Đoàn là bạn chú Tư của anh. Chú Tư là y sĩ của trại giam tù phiến
Cộng vùng 4 chiến thuật. Trại
giam này nằm gần bên Trung Tâm Chỉnh Hình. Tội
nghiệp vợ con bác sĩ Đoàn cả mấy năm
trời cứ tưởng ông đã tới nơi an toàn nhưng không chịu liên lạc với
gia đình. Có ai ngờ đâu ông lại nằm ở
đây!
Sau khi đã leo hết ra
khỏi tàu, 47 người trên “con thuyền không
đến” túa ra chạy trốn vào bìa rừng dưới
sự hướng dẫn của những người nông
dân địa phương. Thắng đã
trở lại tàu lấy thêm nước dự trữ và
vài bọc “xôi vị” mà anh đã bỏ sót lại trên tàu
trước khi trở vào rừng. Ngoài sữa cho hai
đứa nhỏ mới 6 và 18 tháng tuổi, anh còn khệ
nệ gùi trên lưng một can nước. Toán thuyền
nhân chạy trốn từ nhóm ghe nhỏ của Thắng
tổng cộng 13 người, con số không may mắn,
được một nông dân giấu gần một gò
đất cho gần đường đi ra chợ. Anh
nông dân giải thích rằng du kích chỉ lo đi ruồng
bố sâu trong rừng già nên sẽ không ngờ có
người trốn gần ngay sát bến đò này.
Suốt gần hai ngày đêm, Thắng vẫn còn nghe
văng vẳng tiếng chó sủa và tiếng súng M16 nổ
đì đùng. Đến ngày thứ ba thì thằng cu Tí, con
chú Sáu mới có 6 tháng tuổi, do đã hết thuốc
ngủ và bị tiêu chảy vì phải uống sữa pha
bằng nước trong rừng, bắt đầu ré lên
cất tiếng khóc. Thắng nhớ lại cô Hồng
dược sĩ gần nhà anh, trong một lần
vượt biên bất thành trở về nhà, đã lặng
lẽ chôn xác đứa con trai 9 tháng tuổi ngay
dưới gốc ổi sau nhà. Thằng bé chết
ngạt vì bị bịt miệng quá lâu cho khỏi phát ra
tiếng khóc trong lúc trốn trong rừng. Thắng
lên tiếng van xin mọi người, “Cứ để cho
cu Tí khóc. Trước sau gì cũng bị
bắt thôi. Đừng bịt mồm
nó, kẻo thằng nhỏ sẽ bị chết ngạt”.
Đến xế trưa thì Thắng nghe văng vẳng
tiếng hát cà rởn của một ông già nông dân:
“Ai đã
từng đi qua sông Cửu Long Giang.
Thoát ra
khơi, quay về đi trốn”.
Sau đó ông
dừng lại cười khà, và cố ý nói thật
lớn tiếng cho đám thuyền nhân đang trốn trong
gò đất nghe, “Bây ra đầu thú sớm đi
để cứu sống đứa con nhỏ.
Đừng để nó chết oan tội nghiệp
lắm bây ui!”. Nghe xong
Thắng cảm thấy chới với đầu óc.
Anh vội sờ nắn lại gấu
quần tà lỏn. Trong đó vẫn còn nằm im cái
khâu vàng hai chỉ Mẹ anh đã may giấu trong đó phòng
khi hữu sự sẽ dùng đến. Anh quay
qua nói nhỏ với chú Sáu, “Cháu phải dzọt lẹ thôi
vì cháu không muốn ở tù cộng sản thêm một
lần nữa. Vì tù can tội vượt biên thật
kinh hoàng lắm!”.Thím Sáu khóc lóc, “Anh
đưa tụi tôi vượt biên rồi bây giờ
bỏ tụi tôi bơ vơ giữa rừng như vậy
hay sao?”. Thắng đành cắn răng
chuẩn bị chấp nhận ngồi tù thêm một
lần nữa. Tới xế chiều ngày thứ ba thì
một thì một anh nông dân người địa
phương tay cầm rựa lơn
tơn tiến vào gò đất. Thấy bộ điệu
sẵn sàng “xuất chiêu” của Thắng, chú Sáu đã
hoảng hốt kéo Thắng lùi lại vì chú biết rất
rõ tánh tình liều mạng của Thắng. Anh nông dân
cũng vội vã lùi lại và phân bua, “Tui đi kiếm cái
cây để làm cái ách bò chứ không làm hại gì cô bác
đâu, đừng sợ”. Tuy nhiên nhìn cái nón “tai bèo” trên đầu anh ta,
Thắng ngầm hiểu giây phút “tái khám” của anh đang
sắp đến. Sau khi anh nông dân rút
lui, Thắng đã nhón giò định bỏ chạy ra
khỏi gò đất. Chú Sáu thấy
thế đã lên tiếng ngăn cản, “Anh du kích này đã
đếm số người ở đây là 13
người rồi. Nếu cháu bỏ trốn lỡ
bị bắt lại sau sẽ bị kết tội tổ
chức chuyến đi, lúc ấy sẽ bị công an đánh cho mềm xương”. Và cả thím Sáu cũng tiếp tục thuyết
phục anh đừng chạy trốn một mình.
Thắng lại phải nhẫn nhục ngồi chờ
đợi tai họa sắp xảy ra.
Chưa đến 15 phút trôi qua thì Thắng đã nghe
được vài phát súng M16 bắn chỉ thiên rất
gần. Một toán du kích tay lăm lăm cây súng
trường Huê Kỳ, mặt đằng đằng sát
khí hung hăng tiến vào lùm cây hốt trọn ổ 13 tên
“phản động” lớn có, bé có, không sót một tên nào…
Đoàn quân “thất
trận” đánh trên biển, ngoại trừ thím Sáu và hai
đứa con của thím, tất cả đều bị
trói thúc ké để điệu về đồn công an xã. Dọc đường, du kích đã dẫn
đoàn người vào nhà một nông dân, nhà cửa có
vẻ khang trang, để xin nước uống. Bà
chủ nhà đã xin phép mấy anh du kích để
được “cứu đói” cho đoàn quân “thất
trận” bằng một nồi cơm trắng ăn
với canh khoai ngọt, nấu với tôm tươi
mới vớt từ dưới hàng đáy dưới sông
lên. Thắng sẽ ghi nhớ tới chết
tấm lòng vàng của gia đình nông dân này. Vì anh đã được tạm thời cởi
trói ra trong vài phút, và được ăn no, sau 3 ngày đói
khát trong rừng.
Lúc đang ăn cơm,
một anh công an đã phán một câu nghe lãng nhách, “Đ.M,
tao cho tụi bay ăn để tối nay tao 'oánh' cho
tụi bay lòi cơm ra luôn!”. Chú thím Sáu đang ăn
vội vã bỏ chén cơm xuống, ngao ngán nhìn hai
đứa con thơ. Thắng nói nhỏ
chỉ vừa đủ cho chú thím nghe, “Chó sủa
thường là chó… không cắn đâu!” Thím
Sáu vội liếc anh và nói nhỏ, “Ở đây tai vách
mạch rừng. Cẩn thận!”.
Đêm đó đàn bà con gái bị trói bằng dây thừng.
Mấy người đàn ông bị còng hai chân bằng còng
số 8 của Cảnh sát Quốc Gia VNCH. Lúc
anh công an người Khmer còn rất trẻ, siết còng
lại, Thắng đã làm bộ nhăn nhó làm ra vẻ
rất đau đớn. Lúc đó nước da
Thắng đen sẫm như da anh công an
Khmer. Có thể anh công an này tưởng
Thắng là đồng bào của anh, nên đã nới cặp
còng lỏng ra hơn một chút. Vì đã
từng ra tù, vào khám nhiều lần nên đêm đó,
Thắng đã biết cách xoay sở để rút đôi
chân ra khỏi còng, và sau đó đưa vào còng trở
lại thật dễ dàng. Anh đưa mắt
liếc nhìn mấy chiếc xe
đạp dựng trước cửa đồn công an
để ước tính xem, sẽ phải tốn bao nhiêu
thời gian để đạp từ đây ra tới
thị xã Bạc Liêu.
Nhìn vẻ
mặt láo liên của Thắng, chú Sáu đã biết ngay ý định
trốn trại của anh. Chú Sáu vội
bấm anh nói nhỏ, “Tụi nó gác vòng trong, vòng ngoài. Anh trốn không thoát đâu. Lạng quạng
tụi nó bắn cho anh tan xác đó. Đừng
dại dột!”
Tới sáng hôm sau, mấy
chiếc xe của công an huyện đã
tới chở hết toán tù nhân can tội vượt biên
về giam tại trại tù của huyện. Số đàn
ông bị nghi ngờ là người tổ chức
chuyến đi, trong đó có Thắng, đã bị đám
ôn binh công an huyện “tẩm quất” cho
mấy trận nên thân. Sau đó, Thắng và hơn 10
người nữa đã “được” ưu ái cho
đeo “đồng hồ” Longines Việt Nam, là một sáng
chế đặc biệt dã man của nước CHXHCHVN. “Đồng hồ” Longines VN được
chế tạo từ sắt móng ngựa 16 ly. Anh em tù nhân gọi đùa là “còng lụi”. Phát
minh này được dùng để đáp ứng cho nhu
cầu tù nhân ngày càng gia tăng theo
cấp số nhân với công bội rất lớn của
nước CHXHCNVN. Còng số 8 của
“Đế quốc” Mỹ để lại không đủ
cho “cách mạng” xài. Vì số tù nhân
của VNCH so với tù nhân của “cách mạng” thật quá
ít ỏi. Trước 30 tháng 4 năm 75,
mỗi tỉnh của miền Nam chỉ có một trung tâm
cải huấn. Sau ngày “giải phóng”, xã nào cũng có
một nhà giam nằm kế bên đồn công an xã. Còng số 8 rất bất
tiện cho “cách mạng”, vì chỉ còng được
một người. “Còng lụi” có
thể “lụi” một lúc được cả chục
người. Lâu lâu công an đi tuần tra buổi
tối, sau khi đã uống rượu xỉn, buồn
buồn lấy cục đá gõ một phát lên cây sắt
chính của chuỗi “còng lụi” làm cả đám tù nhân
đau thấu xương.
Đêm đêm trong trại
giam mấy “anh đội” vừa đi tuần, vừa
lẩm nhẩm ôn bài cho mùa thi tốt nghiệp “bổ túc
văn hóa tại chức” sắp tới. Vào một
buổi tối mùa Đông, một anh đội vừa
đi quanh phòng giam, vừa lẩm bẩm đọc bài
thơ “Hang Pắc Bó” của “Bác”:
”Sáng ra bờ suối, tối
về hang
Cháo bẹ, rau măng đã
sẵn sàng.
Bàn đá chông chênh, dịch
sử Đảng.
Cuộc đời cách
mạng thật là sang!”
Thắng cười
ruồi, “Đúng là thơ…con cóc, của một lũ
dốt chuyên tu, ngu tại chức.” Đợi cho anh công an
đi khuất, Thắng đã ghé tai bác Trí, cựu Trung Tá
Biệt Hải – Cựu học sinh Chu Văn An-Hà nội,
đọc nho nhỏ cho bác nghe bài họa chớp nhoáng
của Thắng:
”Sáng nghe gà gáy, tối
nằm hang
Muối trắng, khoai khô
đã sẵn sàng.
Cùm trói, im nghe lời
của Đảng.
Ở tù cách mạng
“cực kỳ” sang!”
Bác Trí và chú Sáu nằm hai bên
Thắng, đã vội bịt mồm anh lại, kèm theo lời răn đe, “Đợi sang
tới Mỹ hãy đọc bài thơ này lần thứ hai,
kẻo tụi “Vẹm” nó xử trảm anh ngay bây giờ.”
Sau bốn tháng bị
đeo “đồng hồ” Longines nằm trong xà lim biệt
giam, từ sáng sớm, Thắng và “đồng bọn”
đã tiếp tục được đeo “đồng
hồ” về khám lớn ở Cần Thơ. Toán tù nhân
“được” rước xuống chiếc ghe taxi
nhỏ, một chiến lợi phẩm của công an
lấy được từ dân vượt biên, để
điệu toán tù về Cần Thơ. Thắng cùng các
chiến hữu tạm thời được tháo
“đồng hồ” để bước xuống ghe cho
dễ dàng, và ngay sau đó, đã được đeo
“đồng hồ” trở lại ngay. Đặt
lưng xuống lòng chiếc ghe còn sặc mùi cá mắm
của trại giam, Thắng mơ màng nhớ lại hai câu
đối bất hủ của Cao Bá Quát:
”Một chiếc cùm lim chân có
Đế
Ba vòng xích sắt
bước thì Vương”.
Anh đã ngầm so sánh
bọn vua chúa phong kiến "Đế Vương",
và bọn lãnh chúa gian ác cộng sản, thì nhận thấy
cả hai bọn này gian ác đâu có thua gì nhau! Cùm lim hay
“đồng hồ” Longines cũng đều được
dùng để đàn áp con người cả. Chiếc ghe
giải giao tù nhân vượt biên đã di chuyển về
hướng sông Cửu Long, và sau đó, chạy
ngược dòng về hướng Cần Thơ. Khi
vừa đến sông Cửu Long, các bạn tù muốn cùng
nhau nhích lên một chút sát mạn sườn cùa ghe
để hưởng chút gió mát trên mặt sông Cửu Long.
Thắng vội la lớn lên, “Chớ có
dại dột mấy cha nội. Lỡ
sóng đánh rớt hết cả tám người xuống
sông, mà hai chân đã bị cùm, là sẽ chết chìm hết
cả đám”. Thắng vừa la làng xong, thì bất
chợt một chiếc tàu buôn thật lớn chạy qua
làm gợn lên một cơn sóng mạnh đập vào thành
chiếc ghe giải giao tù, làm cả nhóm tám người té lăn lóc trên sàn ghe.
Chiếc ghe nhỏ chở
tù tiếp tục lặng lẽ theo
đuôi chiếc ghe có gắn máy của công an chạy
đằng trước. Trên đó, sáu anh công an mặt mày
lầm lì, tay lăm lăm khẩu súng
đã lên đạn sẵn. Chân Thắng
bị cùm, nhưng miệng Thắng chưa bị khóa.
Cái đầu vẫn còn suy nghĩ rất sáng suốt. Mấy “anh Đội” ngồi ở phía trên
chỉ có thể nhìn thấy để trông chừng tù,
nhưng không nghe được tù nói chuyện vì gió sông
Cửu Long thổi lồng lộng. Suốt
mấy tiếng đồng hồ nằm trong lòng ghe hôi
thối trong cảnh bị cùm trói, không những không
được thoải mái mà cứ lâu lâu lại có vài anh
nhăn nhó, hết mắc tiểu, rồi đến
đau bụng mắc đi cầu. “Tè” thì dễ
rồi, cứ việc vạch “Bác” ra để giải
quyết nhu cầu… sinh lý tại chỗ là xong ngay! Mắc
“đại tiện” mới thật là đại…bất
tiện!!! Rất may trong số tám người tù có
Thắng là người có số tuổi nhỏ nhất,
nhưng thâm niên tù tội không nhỏ nên đã giải
quyết được sự bất tiện này. Mỗi
lần gia đình vào thăm nuôi, Thắng đều
để dành lại mấy bọc nylon sau khi đã sơi
hết đồ ăn bên trong. Mỗi
khi có anh em nào nhăn nhó, mắc “đại tiện”, là
Thắng thò tay vào giỏ đệm móc ra vài bọc nylon cho
người bạn tù dùng để giải quyết
“sự cố”. Thắng không quên dặn
họ xài từng bọc một thôi, và để dành cho
lần sau. Sau khi anh bạn tù đã “giải quyết
nhu cầu sinh lý” vào cái bọc nylon xong, cứ việc thò tay quẳng cái bọc xuống sông Cửu
Long cho cá chốt trên sông “giải quyết”… phần còn
lại! Thế là khỏe re! Mấy ông già hỏi Thắng
ở đâu có sẵn nhiều bọc như vậy, thì
Thắng cười hề hề giải thích, “Gia đình
gởi đồ ăn đựng trong bọc để
“ăn vào”, thì mình phải để dành bọc lại phòng
lúc hữu sự cho việc “thải ra” chứ!”.
Mấy anh
bạn tù đã từng nghe Bắc Kỳ Thắng ca
vọng cổ bằng tiếng Bắc, và nay muốn nghe
Thắng hát nhạc vàng trên sông Cửu Long. Thắng
khoái chí trả lời, “Để moa hát cho mấy toa nghe
bản nhạc tuy ‘đỏ’ nhưng mà nghĩa là ‘vàng’!”.
Rồi Thắng bắt đầu cất cao giọng hát
nhái theo bài “Tình đất đỏ
miền Đông”:
“Cha xúi con, tìm
đường sang đất Mẽo
Ngang Côn đảo, tàu
bị cướp quay về.
Về tới Vĩnh Châu
bị công an bắt nhốt
Nhốt rồi đưa
về khám lớnnn…Cần Thơ!”
Các anh em tù đồng
loạt vỗ tay vang vọng hòa với sóng nước trên
sông MeKong . Thắng lại tiếp
tục hát:
”Lên tới
đây thì đừng mong chối cãi
Khai cho rõ, thì nhà nước
khoan hồng
Vàng tốn bao nhiêu ai
chủ mưu, ai móc nối!
Khai thật đi rồi,
thì nhà nước, trả tự doooo…!!!”
Thắng đã ngưng
lại một chút để rít một hơi thuốc lá
làm anh em tù nhao nhao hỏi, “Vậy thì khai làm sao, khai làm sao?”. Thắng hát tiếp phần còn lại:
“Nhà nước
ơi! Ngu dại gì mà khai báoooo (Thắng
gân cổ ngân nga)
Người ta rủ tui
đi,
Đi sang Mỹ làm giàu.
Người ta rủ tui
đi, tui đi tìm tự do!”
Mấy anh em
tù cùng cười sảng khoái trong cảnh đau khổ
cùng bị cùm trói. Sau khúc hát cuối cùng, Thắng
đã nhấn mạnh, ”Tôi đã từng
ở tù nhà giam cấp Tỉnh. Tụi công an chấp pháp
Tỉnh dã man tàn bạo hơn công an Huyện rất
nhiều. Các anh em tuyệt đối tuân theo
phép “đồng nhất không” của Karl Marx: Không nói-Không
nghe-Không biết. Đừng thèm nghe những lời công an hù dọa. Nó có hỏi lắt
léo, thì phải cố im lặng không nói. Nói
nhiều sẽ bị hố. Và nếu
như nó có hỏi ai tổ chức chuyến đi, thì
trước sau cứ trả lời không biết.” Thắng
nhấn mạnh thêm, “Khi công an đánh
đập hỏi cung chán chê, mà không moi được tin
tức gì thêm, thì chúng sẽ ngưng không hỏi tiếp. Nhưng nếu càng khai nhiều, càng rắc
rối lôi thôi. Cha nội nào khai lạng quạng, làm
anh em bị vạ lây. Mai mốt
được thả ra, nếu tổ chức đi
tiếp tục, tôi sẽ bảo ông Tám bỏ cha nội
đó lại ở Việt Nam luôn đấy!”
Tới
bến tàu của ty công an Hậu Giang, thì mặt trời
đã tắt hẳn. Vì vậy đám công an cả đêm đã ghìm tay súng vững
chắc canh gác cho đám tù nhân vượt biên
được hưởng thêm một đêm ngủ yên
với chiếc “đồng hồ” Longines dưới chân
kế bên bờ sông Hậu lộng gió.
Sát bên chiếc ghe nhỏ
giải giao tù, là một chiếc du thuyền sang trọng,
lộng lẫy thật lớn. Phất phới trên nóc du
thuyền, là lá quốc kỳ của Hòa Lan.
Trên thuyền vẫn còn mở đèn và nhạc om sòm. Vài bà đầm mũi lõ, vẫn
nhởn nhơ đi lại trên boong và mở to cặp
mắt tò mò nhìn xuống đám thuyền nhân tay không đeo
“đồng hồ” Longines made in Swiss như mấy bà,
nhưng chân lại được đeo “đồng
hồ” Longines made in VietNam!
Có anh công an huyện hơi
“nhiều chuyện”, lúc đem nước cho tù nhân uống
đã “bật mí” cho Thắng nghe qua loa về chiếc tàu
lạ này. Hắn nói đây là chiếc tàu tình báo của
“điệp viên” phương Tây vào thăm dò bờ
biển Việt Nam. Chiếc tàu này đã bị du kích
“cơm” của huyện Long Phú “bắt sống” tại
chỗ chỉ sau vài phát súng chỉ thiên từ súng M16 tịch
thu được của “Đế quốc” Mỹ.
Hắn cũng khoe thêm rằng, anh du kích “cơm” đã có
công bắt sống được chiếc tàu tình báo này, và
được Phạm Văn Đồng khen thưởng
bằng một tấm bằng khen “Vì an ninh Tổ
quốc”. Nghe xong câu chuyện này, Thắng
đã cười thầm trong bụng. Lúc
chưa bắt đầu chuyến vượt biên này,
đêm đêm nằm nghe đài BBC và đài VOA, anh đã có
nghe hai đài nhắc đến chiếc du thuyền
đó. Đây là chiếc du thuyền
của bọn nhà giầu rững mỡ bên Bắc Âu.
Lúc tàu đi ngang qua hải phận Việt Nam
, bị sóng gió đánh bạt vào bờ biển
Việt Nam, chớ nào phải tàu tình báo cóc khô gì đâu! Các
nước Tây phương thăm dò kẻ thù bằng máy
bay vô tuyến thám không U2, giống như thời Tổng
Thống Kennedy thăm dò đầu đạn nguyên tử
của Nga tại Cuba. Tên Thủ tướng Phạm
Văn Đồng chắc tưởng dân miền Nam ai
cũng ngu dốt như hắn ta, nên
đã ngang nhiên tuyên truyền kiểu ngông cuồng như
vậy.
Sau một
đêm trằn trọc mất ngủ bởi tiếng
nhạc ồn ào từ chiếc du thuyền neo kế bên,
Thắng và đồng bọn đã được
giải giao vào “đại khách sạn” Long Tuyền.
“Đại khách sạn Long Tuyền”, một tên gọi
mỉa mai do tù nhân đã đặt cho khu biệt giam
của ty công an Hậu Giang quả là danh bất hư
truyền! Trước đây nơi này là
nghĩa địa hoang. Do số tù nhân gia tăng quá
nhanh, và khám lớn trong thành phố không đủ chỗ
chứa, vì vậy nhà nước đã cho giải tỏa
nghĩa địa, đồng thời xây nên trại tù
này. Nhà giam có một khu xà lim đặc
biệt mang tên A4 cho giống A30, A20, là những nhà tù khét tiếng
gian ác ở miền Trung. Thắng
được tống vào giam tại phòng 12, ngay góc trong
của “đại khách sạn”. Những anh em tù nhân
lâu năm ở đây đã giải thích, vì phòng này nằm
ngay trong góc, nên ánh nắng chiếu ngay trước mặt
vào buổi sáng, và chiếu bên hông vào buổi chiều. Cho nên đây là phòng nóng nhất của trại
giam. Cộng thêm cái lò gạch phun khói
24/24, nên không khí trong phòng rất ngột ngạt, khó
thở. Phòng có diện tích 9 mét vuông. Cầu tiêu
chiếm 2 mét vuông. Diện tích còn lại khoảng 7 mét
vuông, nhưng thường xuyên giam giữ từ 12
đến 15 người tù nhân. Trong phòng, chỉ có một
lỗ thông hơi bằng hai bàn tay. Cho nên thỉnh thoảng, lại có tù nhân chết
vì thiếu dưỡng khí. Lúc mới bị tống
vào phòng biệt giam này, Thắng đã thật sự
ngỡ ngàng vì không biết mấy anh công an
huyện “lập sổ bìa đen” như thế nào vào
hồ sơ tù của anh, mà anh lại bị tống vào cái
địa ngục trần gian này.
Hơn
mười nhân mạng cứ thay nhau đổi ca ra vào
phòng biệt giam. Hễ cứ có người bị
giải giao về những trại giam lớn ở
miền Trung, sau khi đã bị kết án
chung thân, thì lại có người khác vào trám chỗ ngay.
Thắng có nghe kể chuyện, có nhiều tù nhân vì quá
tuyệt vọng, đã thắt cổ hoặc dùng lưỡi
lam cắt gân máu để tự sát. Sau vài tuần lễ
làm quen với không khí kinh hoàng của trại biệt giam,
Thắng đã bắt đầu hội nhập dần
với những con người khốn khổ nhất
dưới sự thống trị của chính quyền
cộng sản Việt Nam .
Đêm đêm Thắng thò
mỏ qua lỗ thông hơi bé tí để hát những bài
nhạc “vàng” có, “đỏ” có, cho các xà lim khác nghe giải
sầu trong những lúc gặp được mấy anh đội
coi tù nhân đạo, dễ thương. Trong những ngày
tháng nóng nực, hơn 10 con người trần truồng
như Adam, đã phải lấy nước đổ ra
khăn rồi ngồi chồm hổm lên đấy, hoặc
nằm nghiêng cho đỡ nóng. Trong cảnh
cùng khổ đó, Thắng vẫn vui vẻ kể
đủ các chuyện tiếu lâm, từ tục
đến thanh, để giúp anh em tù nhân giải sầu.
Trong ba tháng đầu tiên, hầu như
mỗi ngày hai lần thường là buổi chiều
hoặc ban đêm, Thắng bị điệu lên phòng
điều tra để hỏi cung. Con mẹ
Thượng úy công an mắt lé, mấy ngày đầu
đã dí khẩu súng K54 vào đầu Thắng sau khi đã
nắm tóc, đập đầu anh vào tường mấy
phát. Cái trò này quá nhàm đối với
Thắng, vì đây đâu phải là lần đầu tiên
anh bị ở tù đâu. Từ tháng
thứ tư cho tới ngày anh được tạm tha vào
tháng thứ 14, để chờ ngày ra tòa (do gia đình anh
có “chạy thuốc” đút lót). Số
lần hỏi cung đã thưa thớt hơn.
Thỉnh thoảng con mẹ Thượng úy mắt lé,
vẫn kêu anh lên “đột xuất” để hỏi cung
vào ban đêm, nhưng Thắng đã cương quyết
không khai. Đến lễ Quốc khánh cộng sản
Việt Nam 2 tháng 9, thì Thắng được tạm tha,
nhưng anh vẫn phải về trình diện cho công an địa phương quản chế. Ngày được phóng thích, có một kỷ
niệm mà gần 30 năm trôi qua Thắng vẫn còn
nhớ mãi. Một anh chàng phóng viên đài truyền hình
Cần Thơ vào nhà giam để thực hiện
đoạn phim đại xá tù nhân, đã chọn ngay
một bà mẹ quê chuyên môn đưa người đi
vượt biên, cũng được thả cùng ngày
với Thắng, để phỏng vấn. Có thể do
nhìn tướng mạo nông dân thật thà chất phác
của bà, mà anh ta đã chọn bà. Anh phóng viên đã bấm
máy liên tục để thâu âm và hình lúc bà cụ nói lời
“tri ân” với nhà nước đã khoan
hồng tạm tha cho bà về đoàn tụ cùng gia đình.
Tuy nhiên, đến lúc anh chàng phóng viên hỏi
bà cụ cho biết cảm tưởng về những ngày
tháng trong trại giam, thì bà cụ đã bật khóc. Kế đó bất thình lình, bà cụ quay mặt
về hướng dãy nhà đã giam cầm bà. Sau đó, bà quỳ mọp xuống đất vái
lia lịa khu nhà giam kinh khủng mà bà đã sống ở
đó hơn một năm trời. Anh chàng phóng viên
bị teo hồn, lạc phách, với tay
tắt máy cái rụp, chấm dứt đoạn phim
phỏng vấn trước thời hạn.
Đã hơn một
phần tư thế kỷ lặng lẽ trôi qua, kể
từ ngày “con thuyền không đến” của Thắng
phải quay trở về đất liền Việt Nam sau
khi bị “hải tặc có giấy phép” cướp bóc và
phá hư tàu. Rất nhiều người cùng đi chung chuyến tàu đó với Thắng đã
tiếp tục “chịu chơi” ra khơi. Thắng
cũng gặp lại được rất nhiều
người trong số này tại trại tị nạn.
Anh cũng từng dạy Pháp văn cho những
người được định cư ở Canada,
cũng như dạy Anh văn cho những người
được định cư ở Úc, vì họ không có
diện đi Hoa Kỳ. Dĩ nhiên, vài người vẫn
nhớ ơn thầy Thắng, vì thỉnh thoảng họ
vẫn viết thơ thăm hỏi anh kèm theo vài tấm
hình “áo gấm về làng”, du lịch Việt Nam
. Tuy nhiên, có một điều chua chát
cay đắng là hầu như chẳng một ai còn
muốn nhắc đến chuyện trở về
đất liền kinh hoàng của “con thuyền không
đến” năm xưa. Mọi người hầu
như im lặng coi như đó là chuyện “xưa rồi
Diễm ơi!”.
Một buổi chiều mùa
Hè đi làm về muộn, bên ngoài đang nóng 102 độ
F, Thắng không thể đưa hai cô công chúa ra công viên
chơi được. Anh đã mở internet ra để
giải khuây, và tình cờ, đọc được
mấy câu ca dao lịch sử khá hay:
”Ngày đi
Đảng gọi Việt gian
Trở về, Đảng
lại chuyển sang Việt kiều!
Khi đi phản
động trăm chiều
Lúc về thành khúc ruột
yêu ngàn trùng.
Trốn đi
Đảng dí đến cùng,
Quay về Đảng đón,
Đảng lùng dollars.
Công ơn
Đảng, thật bao la.
Là Cụ
thằng đểu, là Cha thằng lừa!”
Đọc
xong, anh thanh niên cường tráng tóc xanh “mướt
rượt' Nguyễn Ngọc Thắng năm xưa, nay đã
trở thành một hội viên, “Hội người
Việt cao niên” của tiểu bang, đã ngồi im
lặng thở dài. “Ông già” Thắng vừa
bước vào đúng cái tuổi già, vừa xoa mái
đầu lốm đốm bạc, vừa lẩm
bẩm nhái theo giọng “Bắc Kỳ
hai nút”: “Hình như tám câu Thơ Thần này…đéo có sai tí nào
cả!”
Bà vợ già của
Thắng ngồi kế bên, đã nhéo ông già đầu
bạc một phát, càm ràm, “Con cháu dân 'Hà nội cũ' mà sao
lại ăn nói giống người 'Hà nội mới'
vậy?”. Thắng cười khà khà. Anh quay đầu nhìn về hướng hai cô công
chúa, thế hệ của mai sau, đang ngồi bên nhau trong
phòng khách. Thắng nghĩ, "Nhất
định con, cháu anh phải luôn ghi nhớ và tìm về
với cội nguồn của chúng. Cho
dù chúng có sanh ra và trưởng thành nơi đất khách,
quê người, anh vẫn sẽ cố gắng đưa
chúng quay về lịch sử Việt Nam. Trong đó, không thể thiếu được
giai đoạn cha ông chúng đã sống gian khổ ra sao
dưới ách thống trị của chế độ
cộng sản Việt Nam".
Người Hai Lúa New Jersey
Tháng 7, 2012.