Chờ
Cho Trăng Lặn
Thầy Nguyễn
Văn Sâm
Sự đời
thà khuất đôi tròng mắt,
Lòng đạo xin tròn một tấm gương.
(NÐC)
Thằng Thành khom lưng vét
chút nước mấp mé dưới đáy lu
mà mắt ngước ngó lên đám mây thành đương
sơn màu hồng lợt bằng chút nắng quái le lói của
ngày tàn. Mấy lùm tre đằng đông đã bắt đầu
mờ mờ nhưng phía nầy ánh thái dương vẫn
còn ngự trị. Nó rảo mắt theo
dõi mấy cụm khói lam chiều tỏa lên chỗ xóm nhà lá
xa xa, lòng nôn nóng. Mới đi xốc lá ủ về, tay chưn mình mẫy dơ dáy, rửa ráy sạch
sẽ rồi chút nữa sẽ thả bộ tới nhà thầy
Năm Dậu. Càng cà rà kề rề càng lâu càng tốt để
ngó con Kén cho mãn nhãn. Ôi đôi bông chạm bông búp nhỏ xíu
đậu trên hai trái tai trắng nuốt
của nó thấy mà muốn rụng tim! Ði đã, cơm
nước tính sau! Làm túi bụi rộn ràng cả ngày chỉ
chờ lúc nầy thôi. Có cuốn Hậu Vân Tiên má mới xì
ra hồi sáng, nhập với mớ thơ truyện đủ
thứ, năn nỉ thiếu điều gãy lưỡi mới
muợn được đằng nhà bác Hương Giáo hồi
hôm qua, sẽ đưa hết cho bà Hai mượn chuyền.
Bà vui lòng không than mỏi lưng buồn ngủ thì buổi
nói thơ với bàn chuyện Nam Tào Bắc Ðẩu càng dài,
càng vui.
Cái gáo dừa cạ xột
xột vô chỗ quét xi-măng-nước dưới
đáy lu, má nói ê răng ghét lắm, mỗi
lần nghe là mỗi lần ngầy-ngà vậy mà thấy
vui vui. Lu hết nước, ló cái u dưới đáy, ánh
lên màu rêu mốc xanh xám, ngời chiếu. Nước cặn
quá mạng! Nó lấy đầu gối đẩy thành lu cho hổng đít lên, tay trái kềm nghiêng
nghiêng, tay mặt vét múc chút nước ít oi còn xót lại.
Vài con lăng quăng bất hạnh bị
múc vô gáo, đem lên ánh sáng, khó chịu, búng lên búng xuống một
hồi rồi mệt mỏi thả chìm từ từ xuống
đáy gáo như một cử chỉ chấp nhận thua
cuộc.
Thằng Thành ngó mấy cái
đầu bự bằng đầu kim
gút mà tưởng tượng trong đó có đôi mắt
van nài đừng quấy động, rồi mỉn cười
một mình. Thường, buổi trưa trời nắng,
khát nước, nó uống ừng ực luôn ba bốn hớp
đầy, cố ý chừa mấy con lăng
quăng ra. Rủi ro một vài con hết thời trôi vô tọt
luôn thủy liêm động thì cũng chẳng chết thằng
Tây thằng Ma-rốc nào, sao bữa nay mắc chứng gì mà
rửa tay rửa chưn cũng để
ý tới mấy con vật nhỏ nhỏ tung tăng đó?
Nó xối một cách hà tiện
chút xíu nước vô tay cho ướt rồi
vuốt vuốt mặt. Nước mưa để lâu
ngày mát lạnh da thịt một cách dễ chịu. Chừng
một tháng nay con Kén đưa tách nước trà mời
khách không biết vô tình hay cố ý mà lần nào cũng đụng
vô tay nó. Cũng mát lạnh như vậy,
dầu sự đụng chạm rất ngắn ngủi
và phần giao tiếp giữa tay nó với
tay con Kén cũng nhỏ híu bà hiu. Vậy mà bữa nào nó
cũng thấy vui như mở cờ trong bụng. Vui tới
tàn cuộc về chui vô nóp cong mình lại dỗ giấc ngủ
muộn màng mà cũng vẫn còn vui. Giờ nầy chắc
bên đó xong xả hết chuyện cơm nước rồi.
Có lẽ họ đương sửa soạn đèn đuốc,
trà nước. Chút nữa hỏng bày cuộc đọc
truyện Tàu thì chém chết cũng nói thơ. Tiếc là
thơ truyện họ không có nhiều, quanh đi quẩn lại
cũng mấy cuốn đó. Truyện thì cũng Phi Long diễn
nghĩa kể chuyện Triệu Khuôn Dẩn anh hùng khí khái,
Trịnh Ân lỗ mãng nhưng nhiệt
tình, Sài Vinh thiệt thà lại nhác hít. Ba người kết
nghĩa anh em phiêu bạt giang hồ. Thơ thì cũng Phạm
Công đi đánh giặc mang quách vợ theo, cũng Tào thị
mẹ ghẻ ác nhơn sát đức, cũng Lang Châu cùi
nhưng được người đời đối
đải tử tế, cũng chàng Vân Tiên bị tam tai bát
nạn. Nhàm chán và không hấp dẫn bằng tấm thân nho
nhỏ mảnh mai của con Kén đi ra đi vô nước
rót trà châm hay lúc thúc trong buồng mà cái bóng dáng in đẹp
mất hồn trên tấm màn bông treo ngăn ngang nhà ngoài với
nhà trong. Mẹ họ, không biết phải tình yêu mới
tượng không mà lúc nào cũng thương nhớ không ngui.
Gần thì mắt lúc nào cũng không rời hình dáng nó, xa thì
mãng tơ mãng tưởng không làm công lên chuyện xuống
gì cho xăn xái ra hồn, lắm khi còn ngớ nga ngớ ngẩn
như bị bùa mê thuốc lú....
Thằng Thành vô nhà lấy
lược, trở đầu nhọn của cán, vít một
chút biđăng-tin, dòm vô miếng kiếng nhỏ vắt
trên vách lá, trét trét chải chải lên đầu, ngắm tới
ngắm lui mấy chục bận, khi thấy đường
ngôi thiệt thẳng, tóc rẽ hai bên thiệt đều,
mới chịu gắn lược sau tấm kiếng
đi ra. Vừa đi nó vừa quẹt mỏ chùi mấy
giọt mồ hôi tươm ra trên mí mép đã bắt đầu
hiện lơ thơ một vệt râu non.
Nhà thầy Năm Dậu
chơi sang bữa nào cũng thắp hai cái đèn khí đá
sáng rực. Lại còn vặn nước xuống nhiều,
lửa xanh ở đầu béc đằng xa thấy ảo
ảo như ma trơi. Nó bước vô hàng ba, đứng
êm tiếng, vừa lấy bình tĩnh chờ tim
bớt đập vừa coi nhóng tình hình. Tiếng thằng
Cò ê-a thơ Vân Tiên:
Vân Tiên ơ
ơ ơ chém (mà) Cốt Ðột rơi,
Ðầu treo ơ ơ ơ cổ ngựa (mà) phản hồi
bản quân.
Ôi thôi ơ ơ ơ ..bốn phía những
rừng,
rời đà (mà) tối mịt biết chừng gần
xa...
Tiếng Bà Hai chận ngang:
"Thằng Cò mầy có
đọc kỹ không đó mậy? Sao lại chém rơi. Ðầu
nào rơi, đầu nào Vân Tiên treo cổ ngựa?"
Thằng Cò bị sửa
lưng tức mình cải bướng:
"Phải mà nội, chém
thì đầu phải rơi chớ. Rơi tức là rớt
xuống như tiếng của mình đó nội. Chữ
nghĩa người ta nói rơi. Quê mùa mình nói rớt, rụng.
Ðầu giặc rơi rồi thì tướng lượm
lên treo trên cổ ngựa để thị oai."
Năm Dậu xa gần rầy
con:
"Chà thằng Cò bữa
nay bảnh quá ta! Dám dạy bà nội nó tiếng Việt
mình nữa chớ! Bà nội từng tuổi đó mà không
rành bằng mầy sao mà phải cắt nghĩa con! Cái thằng!
Ðâu coi kỹ lại coi con. Chưa coi lại gì hết
đã cải bướng rồi. Chữ quốc ngữ
bây giờ ba cái dấu sắc huyền hỏi ngã dị hợm
lắm. Sai một li đi một dặm à! Có một cái dấu
không mà thầy tú thành thây tù, cư an thành
cử ăn tao thấy hoài. Không phải như chữ An
Nam đâu!"
Thằng Cò không sợ bà nội
bằng sợ ba nó, ổng nói cà rỡn vậy mà bạt tay đau thấy ba bốn ông trời hồi
nào không hay. Nó đưa cuốn thơ lên ánh đèn dò lại.
Thằng Thành lựa lúc nầy
mới bước vô nhà, xá chào những người trưởng
thượng, kính cẩn chìa cái gói thơ truyện cho thầy
Năm Dậu rồi ngồi ké né bên mép bộ ván ngựa,
chống chưn xuống đất kế
bên thằng Tâm-cán-vá. Chiếc chiếu lác đương bằng
cỏ uđu đã trải sẵn kế bên mà nó cũng
không dám đụng. Nó liếc ngang thằng Tâm. Cha chả
mình tới sớm vậy mà cũng trễ bộn, thằng
nầy còn lết đít tới sớm hơn. Bộ tới
đây đâu hồi tưng bửng sáng
chắc? Coi bộ nó còn lậm con Kén hơn mình nữa kìa.
Nhưng mà cái thằng ba trợn nầy dở mã, không
đáng lo. Như chim mới vừa đủ lông, chưa dập
bụng cứt, biết gì đâu nà!
Năm Dậu ngó khách, lúc
đưa tay nhận gói sách anh không nói
gì, cũng không mời ngồi. Có lẽ đã quá quen khách,
có lẽ đã đi guốc vô bụng bọn trai tơ
như lứa thằng Thành, thằng Tâm. Ðúng là bộ điệu
của mấy ông có con gái đẹp!
Ði qua nhà tía, tay tôi xá chơn tôi quỳ,
Lòng thương con tía xá gì cái tấm thân tôi.
Con Kén đâu không thấy
ha! Nhớ tới nó là bao nhiêu ngượng ngịu cũng
chịu được hết. Không mặt dầy, ưa mắc
cở thì làm sao có dịp thấy được mặt nó?
Thằng Cò cũng vẫn còn dò dò kiếm kiếm, không chú ý
tới khách mới. Nó khựng khựng một lúc hơi
lâu rồi nuốt nước miếng tỉnh tuồng
như không có chuyện gì xảy ra nãy giờ, đọc lấy
đọc để:
Vân Tiên ơ
ơ ơ chém (mà) Cốt Ðột rồi,
Ðầu treo ơ ơ ơ cổ ngựa (mà) phản hồi
bản quân.
Ngoài kia
tiếng ảnh ương hòa dạ khúc mừng bóng
đêm, trong nầy thằng Cò ê-a làm vui lòng tía má với nội.
Mỗi nghệ nhơn có thính chúng riêng, ai có sân khấu nấy,
không ai muốn so tài cùng ai vậy mà sao coi mòi thằng Cò lép
vế bộn. Nó đọc càng lúc càng nhão giọng trong khi
dàn hợp xướng bên ngoài càng lúc càng uyềnh-oang vang vọng
hơn lên. Thấy thằng nhỏ coi bộ buồn ngủ,
bà nội nó giải quyết:
"Cò, đâu mầy lật chỗ
bà già Quỳnh Trang biểu con nhỏ Thể Loan ra đón
Vân Tiên đọc nghe coi. Họ thấy Vân Tiên thi đậu
họ mới săn đón đưa rước đó.
Chưa thi đậu thì đừng có hòng! Nghe đoạn
nầy không biết bao nhiêu lần rồi mà mỗi lần
nghe lại tao đều ứa gan, lộn ruột. Ðồ
cái thứ đàn bà hư thân mất nết không biết xấu
hổ!" T
Thằng Cò mắt nhắm
mắt mở lật lật kiếm kiếm. Rồi
cũng xong. Nó cất giọng hào hứng như lúc ban đầu
ê-a. Bà nội nó phẩm bình chêm vô giữa chừng cũng
không làm nó mất trớn:
Loan rằng mình
ở chẳng hay (biết vậy thì tốt!)
E người còn nhớ những ngày trong hang (thứ
đàn bà trời đánh!)
Trang rằng con có hường nhan (cái nết quý hơn
hường nhan chớ)
Cho chàng thấy mặt thời chàng ắt ưa. (Khéo bẹo
dạng bẹo hình!)
Dầu chàng còn nhớ tích xưa (Ác quá ai mà không nhớ!)
Mẹ con ta lại đổ thừa Võ công (ai mà tin?)
Cùng nhau bàn luận đã xong,
Soi gương đánh sáp ra phòng rước duyên (Ðồ mặt
dầy!)
Thằng Cò để tập
thơ xuống, hỏi Bà Hai: "Có hường nhan là có
cái gì vậy hả nội?"
Năm Dậu trả lời
hớt:
"Là đẹp đó!
Như má mầy vậy!" Tiếng cười dòn nổ
rân khắp nhà. Tiếng chị Năm Dău ở dưới
nhà bếp vọng lên vui vẻ. "Cái đó là tui hỏng
biết à nhe!"
Thằng Thành cảm thấy
bớt bỡ ngỡ ngượng ngùng. Nó cười lớn
hơn ai hết thảy, lại còn khen hùa để mua
lòng. "Ðúng quá đúng quá! Thầy Năm nói không trật một
chút nào hết." Nói mà nó ngó con Kén thiếu điều rớt
hai tròng con mắt.
Thằng nhỏ chưa chịu
im:
"Chị Hai có hường
nhan nhiều hơn má mà! Mấy anh trong làng ai cũng nói vậy
hết, anh Thành nè, anh Tâm nè, Cậu Hai Xách-Lu nè. Bữa hổm
cậu còn đọc cho con, biểu con về đọc lại
cho Chị Hai nghe,
Con rắn
năm khoan bò ngang đám tép.
Tao thấy chị Hai mầy đẹp đẹp tao
thương.
Ðất vườn lên liếp xẻ mương,
Mắt em hột nhãn anh thương hết hồn...
Ảnh nói mắt hột
nhãn là mắt đẹp.
Thằng Thành tức giận
ói gan mà cũng bắt tức cười. Con Kén mới trổ
mã hai ba năm nay, làm tốt, xức dầu dừa, chải
đầu chải cổ óng mượt thì cũng ưa
nhìn đó. Ưa nhìn thôi, chớ làm sao sắc sảo bằng
mấy con nhỏ lớn hơn một hai tuổi ở Ô
Môn, Bình Thủy mà nói có hường nhan? Nó ngó theo
bộ hậu con Kén khi con nhỏ đỏ mặt đứng
dậy cái rột đi vô buồng lẹ như chạy trốn.
Ðã vậy mà khi đi ngang qua chỗ thằng Cò ngồi, ẻn
còn kí đầu nó một cái cốc nghe không thôi cũng thấy
đau điếng. Cả nhà ai nấy đều cười
nghiêng ngửa. Bà Hai cười chảy nước mắt,
vừa kéo khăn chậm mắt vừa cố gắng nín
cười.
Có tiếng lớn họng
ngâm nga ngoài ngõ: "Vân Tiên Vân Tiển Vân Tiền, Ai cho tôi tiền
tôi nói chuyện Vân Tiên" rồi cậu Hai Xách-Lu bước
vô nhà, thơm phức mùi dầu thơm
thành thị. Cái đầu ngúc ngắc, cái mặt vát hất
như mặt thằng đánh bồng, thấy ghét không chịu
được, thằng Thành chưởi thầm trong bụng!
"Chào ngoại, chào chú thiếm.
Ủa thằng Thành với thằng Tâm cũng có mặt ở
đây nữa hả. Cũng biết nghe nói thơ sao mấy
bậu?"
Câu hỏi bị đá chuyền
vô trong không khí, người đáng lẽ trả lời làm
bộ không nghe, người hỏi cũng không cần câu
đáp. Mấy người lớn ngó nhau. Không khí đọng
lại cở chừng một phút. Cậu Hai trân trọng
đem để trước mặt bà Hai một gói trầu
cau, nói:
"Con mới ra chợ Ô
Môn, thấy trầu cau ngon mua về cho ngoại dùng. Có cái ống
ngoái đồng nữa. Cái của ngoại nứt hết
rồi cũ quá, vôi đóng đày miệng ngoái khó
khăn!"
Bà Hai ừ chừng cho qua
tang lề, coi mòi không thích lắm chuyện quà cáp, cũng
không đưa tay đụng tới món
quà. Cậu đem tới Năm Dậu hai ba gói lớn xộn
nãy giờ xách tòn ten, nói là thịt heo quay với bánh bò, thấy
họ mới đem ra, còn nóng, mua về cho chú Năm nhậu
chơi. Chục nem bì là nem Bình Thủy có người cho ông
già, sẵn dịp qua đây đem kiếng biếu chú
Năm ăn lấy thảo.
Năm Dậu có hơi mắc
cở với hai người khách kia nên
ngượng nghịu tiếp nhận rồi kêu con Kén ra lấy
đồ đem cất. Buổi đọc thơ lại
tiếp tục. Bà Hai ngó theo con Kén rồi
ngó cậu Hai. Cử chỉ của bà điềm đạm
như tự thuở giờ, hai tay vẫn
ngoái trầu, cái ống ngoái được kềm giữa
hai bàn chưn, mặt không lộ vẽ ghét thương gì về
sự có mặt của cậu Hai. Bà vẫn điều khiển
cuộc nói thơ:
"Cò, đâu con lật chỗ
Vân Tiên gặp Nguyệt Nga đọc cho bà nghe coi. Sao bà
thương hai đứa đó quá! Xứng lứa vừa
đôi mà trắc trở cả mười năm mới gặp
lại nhau."
Thằng Cò đã quá quen với
cách nghe đọc thơ kiểu nhảy tới nhảy
lui của bà nội nó, kiên nhẫn thấm nước miếng
lật kiếm đoạn được yêu cầu. Nó lại
ê-a...
"Riêng than
trâm hỡi là trâm,
Ðã vô duyên bấy ai cầm mà mơ.
Ðưa trâm chàng đã làm ngơ,
Thiếp xin đưa một bài thơ chớ từ."
Vân Tiên ngó lại rằng: "Ừ,
Làm thơ cho kíp chừ chừ chớ lâu."
Tâm Cán-Vá lặng yên thin thít
nãy giờ, bổng nhiên mở màn bình luận, giọng ồ-ề
của con trai mới bể tiếng:
"Cái anh chàng Vân Tiên nầy
hay cải trời! Con gái người ta đưa trâm
nghĩa là trao tình rồi, cứ đưa tay
ra là được mèo thôi, vậy mà còn từ chối. Chắc
làm bộ quá. Chín hấu mại hơi là cái chắc."
Thằng Cò bỏ cuốn
thơ xuống ván ngựa, sẵn dịp lấy tay vò vò chỗ đau trên đầu rồi
ngóng mỏ về phía người nói. Thằng Thành thấy
dạng miệng cũng góp ý:
"Không phải làm bộ
làm tịch gì đâu, đàng hoàng với đàn bà con gái
đó. Hỏng thấy Vân Tiên biểu khoan khoan ngồi
đó chớ ra, nàng là phận gái, ta là phận trai hay sao?
Ðàng hoàng là nhờ theo thầy học
đạo thánh hiền. Sách dạy nam nữ thọ thọ
bất thân...."
Cậu Hai Xách-Lu ra dấu
không đồng ý với thằng Thành nhưng thằng nầy
cứ coi như không, nói tiếp:
"Cái khác của Vân Tiên với
thằng Lía ở chỗ đó. Vân Tiên người ta đi
học thành tài, người ta là tướng, là vua nên
đàng hoàng. Thấy gái thì khoan thai chậm
rãi. Còn thằng Lía đi học không tới đâu hết
đã bị đuổi rồi - nó cố tình đưa ra
chi tiết nầy - nên thấy gái, dầu là gái có chồng
cũng tò vè, tọc vạch ép uổng. Cho nên về sau chết
vì gái. Chết mà hỏng ai thương xót."
Cậu Hai thấy mình bị
nói xỏ xiên, giận cành hông. Tao bị đuổi vì tao
chán học. Mấy thằng Tây dạy trên trời dưới
đất tao có thấy xài được giống gì
đâu mà học hành cho mệt thân. Về đây góp lúa ruộng
mấy trăm mẩu, coi hai cái nhà máy xay, vừa ăn vừa phá suốt đời cũng
không hết, học làm chi cho uổng đời trai? Bị
đuổi tao còn nói được tiếng Tây, còn mầy
là thằng con nít hỉ mũi chưa sạch, đừng
có nói xỏ xiên, lộn xộn.
"Vân Tiên làm bộ nhát gái
đó," cậu cố nói giọng thiệt là trầm tỉnh.
"Ðạo đức giả
ai mà không biết. Có người đã thấy rõ Vân Tiên là
người đạo đức giả nên tức mình
đặt câu hát nói huỵch tẹt ra..."
Cậu quay qua Bà Hai:
"Xin lỗi ngoại, thằng
nầy nói con tức quá nhịn không được. Nói chỗ
nầy khó lắm. Mà ngoại có cần đi ra sau xúc miệng
cổ trầu để uống nước không? Nước
của ngoại nguội rồi đó. Ðể con rót cho ngoại
nước khác, nóng uống cho ngon miệng."
Bà Hai hiểu ý, thở dài rồi
bỏ chưn xuống ván quơ quơ
dưới đất kiếm guốc, sửa soạn
đi ra nhà sau. Tuy vậy bà vẫn nói:
"Ờ! Nhưng mà tao trở
lên liền đó nghen! Bây có nói gì thì nói lẹ đi!"
Sau khi ngó ra nhà sau, chắc
chắn không có đàn bà con gái ở gần, cậu Hai Xách-
Lu mới nói, giọng nhỏ hơn bình thường:
"Phàm người ở
đời thì không ai tránh khỏi cái tật gái tham tài trai
tham sắc. Nói không tham không ham là nói ngoài lỗ miệng
thôi, để che mắt thế gian, trong bụng mình thì ai
cũng như ai, toàn cứt không. Bởi vậy cho nên thấy
Vân Tiên của cụ Ðồ Chiểu đạo đức
giả người trong đồng quê rẫy bái mình, vốn
tính thiệt thà chơn chất, nghĩ sao nói vậy, mới
có câu hát: "Vân Tiên núp dựa bụi môn, chờ cho
trăng lặn bóp ... Nguyệt Nga". Xin lỗi Chú
Năm, cái thằng Thành nầy không nói rõ nó không hiểu chuyện
đời."
Là con trai mới lớn,
nghe tới món đó thằng Thành hết hồn, câm miệng.
Thuở giờ nó cũng có nghe câu nầy chớ chẳng
phải không. Nghe nhiều lần nữa là khác. Nhưng mà
kín đáo riêng tư giữa con trai cùng lứa, chớ không
phải giữa thanh thiên bạch nhựt có người lớn
tuổi cở cha chú ngồi ở kế bên. Ở đây
nói lên câu đó là không phải chỗ rồi. Càng trật
hơn là đáng lẽ nói mí mí lại nói huỵch tẹt.
Ðã đành là bạch tuột nhưng mà vừa vừa phải
phải thôi chớ, ai lại bạch tuột kiểu lỗ
mãng như vậy. Ngoài nhà sau có ba người đàn bà, chắc
gì họ không nghe? Gái tham tài trai tham sắc, nói cả mớ
vậy sao được, nước giữa dòng khi trong
khi đục, người ở đời kẻ tục
người thanh chớ. Bá nhơn bá bụng mà! Ðâu phải
ai cũng giống ai.
Ba người phụ nữ lên lại
nhà trên. Chị Năm Dậu với con Kén bưng
chè-sôi-nước mời từng người. Khi ngồi
yên vị rồi, và thấy mọi người ai cũng
có một chén chè nóng trước mặt, bà Hai mở đầu
lại:
"Ðâu nãy giờ bây bàn chuyện
gì đâu nói nghe coi. Ðể bà già nầy phân coi ai phải ai
trái, ai có lý ai vô lý."
"Ðâu có bàn gì đâu ngoại",
cậu Hai lẻo mép hớt trước mọi người.
"Nói mà nghe chơi thôi. Con nói là người mình đã
đặt câu vè chê ông Nguyễn Ðình Chiểu lúng túng không biết
làm gì cho phải, chủ trương đánh Pháp hay hòa với
người Pháp. Ðánh thì đánh không lại. Hòa thì khác nào
như kêu dân mình xuôi tay để mặc
tình bọn họ ức hiếp. Cái lúng túng đó thấy
rõ trong cử chỉ của Vân Tiên trước mặt Nguyệt
Nga, không biết đối xử với đàn bà con gái thế
nào cho phải cách, theo kiểu đàn ông con trai hay theo kiểu
tiên nho thánh hiền..."
Bà Hai chận ngang:
"Bây nói nhiều quá ai mà
theo kịp! Ðâu người mình đặt câu gì chê cụ Ðồ
Chiểu đâu?"
"Dạ thì thiên hạ
đọc hoài đó. "Vân Tiên cõng mẹ
trở ra, đụng phải cột nhà cõng mẹ trở
vô. Vân Tiên cõng mẹ trở vô, đụng phải cái bồ
cõng mẹ trở ra. Vân Tiên cõng mẹ trở ra. Ðụng phải
bà già cõng mẹ trở vô. Vân Tiên cõng mẹ trở vô, đụng
phải gà cồ cõng mẹ trở ra"..... Cứ vậy
mà trở ra trở vô hoài, hết ngày hết tháng hết năm
hết đời, như là ông Nguyễn Ðình Chiểu lúng
túng phải lựa chọn giữa cái văn minh vật chất
Tây phương và nền nếp luân lý cùng trung quân ái quốc
Á Ðông, lúng túng giữa đánh với hòa.."
"Tao không học trường
Tây trường u như bây nên không biết kiểu liên hệ
so sánh ấy là phải hay không phải. Có điều từ
câu hát kia tới lời kết luận nọ
tao thấy xa xôi quá, cầu cả chục sào lận, theo muốn
điều hụt hơi mà cũng còn chưa kịp. Tao chỉ
biết là ông bà mình hát giỡn Phạm Công cõng mẹ trở
ra.... chớ không hát Vân Tiên cõng mẹ trở ra bao giờ.
Phạm Công đắt mẹ đi ăn
mày thì cõng cũng là hữu lý. Mẹ già như chuối ba
hương, mẹ đi không nỗi nữa thì con cõng. Chớ
mẹ Vân Tiên mất trong khi Vân Tiên đương trên
đường lai kinh ứng thí thì mẹ nào cho Vân Tiên
cõng? Bây đặt bậy bạ, bây lấy râu ông nọ cắm
cằm bà kia rồi bây cắt nghĩa
đùi nầy nọ về chuyện của người
xưa thì tội lắm đa nghe. Tội với cổ
nhơn đã đành mà tội với chữ nghĩa thánh
hiền mới là trượng! Lút đầu!"
Thấy bộ mặt tiu ngỉu của Cậu Hai, Năm Dậu mới
ngoắc ra hàng ba, nói ba điều bốn chuyện để
xoa dịu khách:
"Mới có một vố
nhẹ nhẹ mà sao coi cậu bàu nhàu quá vậy? Có gì
đâu!" Ngừng một lúc Năm Dậu thân tình. "Cậu
Hai học trường Tây mà bàn chuyện văn thơ Việt
Nam cũng được ớn đó chứ! Cậu ở
Sài-gòn nhiều chứ thời gian ở miệt đồng
quê rẫy bái mình đâu có nhiều mà coi mòi cậu thuộc
câu hò, câu hát nhiều ghê hen?" Ngừng một chút, Năm
Dậu nói thêm, "Hai câu mà cậu đọc cho thằng
Cò sao tôi chưa nghe chưa biết bao giờ? Tôi thuộc
lòng quyển Câu Hát Góp của ngài Ðốc Phủ Của, luôn
cuốn Tục Diêu Chánh Phong của thầy giáo Sắc ở
Tân An tôi cũng nghiền ngẫm hoài mà
không thấy mấy câu hay ho đó."
Cậu Hai trúng tủ, thay vì
bẽn lẽn lại hào hứng khai thiệt, giọng cố
tình bình thản nhưng không khỏi phưởng phất
trong đó đôi chút tự hào:
"Thì cháu đặt tuồng
bụng thôi. Cứ nói trời trăng mây nước gì
đó ở câu trên, xuống câu dưới cho có vần là
xong chuyện. Cháu làm hoài trong mấy bài thi môn Annamite ở
trường mà có ông thầy nào dám hỏi dám nói gì đâu.
Câu hát câu hò của người mình ngàn trùng san dã như lá
trên rừng, như sao trên trời mấy ai biết hết.
Mà cũng không có ai tài nào biết được câu nào thiệt
câu nào giả, câu nào thiên hạ truyền tụng lâu rồi,
câu nào mạo hóa mới được đặt chưa
ai biết ai nghẹ."
Trầm ngâm một lúc Cậu
Hai mới nói như phân bua:
"Cháu không phải người
ăn nói bỗng chõng không biết xét
trước sau. Bà ngoại ứ-hự cháu cũng đủ
đau, cũng đủ thấy mình dốt. Nhưng mà cái
câu Vân Tiên cõng mẹ... thiệt tình là cháu nghe thầy giáo
trên đó đọc rõ ràng. Những điều nói hồi
nãy cũng là lập lại lời thầy giảng mà thôi.
Thầy tốt nghiệp bên Tây đàng hoàng, học trò ruột
của cụ Trần Nguơn Hanh, dạy học mấy chục
năm nay, từ hồi chưa có Âu Châu Ðại Chiến lận.
Không lẽ ổng lại đặt tuồng bụng
như cháu?"
Năm Dậu móc gói thuốc
rê ra quấn rồi chậm rãi le lưỡi liếm mép giấy
để có thì giờ tìm câu trả lời cho thỏa
đáng mà không mất lòng. Anh quẹt quẹt định
đốt thuốc. Cái hột quẹt máy xài bằng dầu
hôi quẹt năm sáu cái mới bắt lửa, lên khói
hơi nhiều cũng không làm anh chú ý. Trời tối, gió
thoang thoảng mát, thơm mùi bông trang tới từ cụm
cây gần bàn ông thiên.
"Cháu là đứa chịu
học môn Annamite lắm nên thầy nói gì cháu đều cố
nhớ," cậu Hai tâm sự thêm "Mỗi lần có dịp
ra đường D'Ormay là mua cho được mấy cuốn
sách của Maison Phát Toán về đọc. Mấy năm ở
en-tẹt chúa nhựt ở không, đọc chữ Tây chữ
u thì lâu lắc, đọc quốc ngữ bất luận
cuốn nào cũng thấy hay..... Thầy còn nói là thiên hạ
ghét ông Ðồ Chiểu cho Vân Tiên hành động cứng nhắc,
mỗi mỗi đều theo cách thế
của ông Khổng ông Mạnh cho nên họ đặt
ngược lại nhiều chuyện xấu về Vân
Tiên. Nào là Vân Tiên ghiền, nào là Vân Tiên cờ bạc. Thử
hỏi có nhân vật trong thơ nào mà bị vẽ nên hình ảnh
xấu xa như vậy không?"
Năm Dậu không biết
trả lời sao cho ổn, trả lời nầy nọ thì
cũng dể thôi, nhưng mà ý kiến vẫn là ý kiến,
chân lý nằm ở đâu không ai biết được.
Thôi đánh hai chữ làm thinh là tốt, anh ngắm đám
sao trời nhấp nháy, phì phà điếu thuốc sâu kèn.
"Nè Vân Tiên cờ bạc
nè: ...Ðặt tên là Lục Vân Tiên, tuổi vừa hai tám nghề
chuyên bạc bài.."
Năm Dậu tức cười
thầm. Cái thằng công tử bột, được
đi học trường Tây trên Sài- gòn là sướng quá
trời rồi vậy mà không lo học hành cho đàng hoàng
đến nỗi bị đuổi. Về đây cả
năm nay ăn no tối ngày đi dạo
đầu trên xóm dưới, phá xóm phá làng không làm chuyện
gì nên thân. Cả nhà nó chỉ biết tính tiền, trong đầu
người nào cũng chỉ nghĩ tới chuyện
ăn xới ăn bớt lúa gạo của tá điền
sao nó lại có thì giờ đọc ba cái thứ lạ lùng
đó không biết?
"Vân Tiên cờ bạc
tôi có nghe có biết, anh chàng Vân Tiên rành tất cả các môn từ
bài cào, tứ sắc, câu tôm tới cuđi, xốc me, xổ
đề... Còn Vân Tiên ghiền tôi chưa biết chưa
nghe. Ðâu cậu đọc thử một đoạn coi ra
sao."
Cậu Hai như mở cờ
trong bụng, tằng hắng lấy giọng rồi đọc,
cũng ê-a như thằng Cò đọc
thơ Vân Tiên thứ thiệt:
"Dân làng một
lủ đông dầy,
Ai ai cũng hút thiệt rày chánh ti.
Tiên đánh Phong Lai thác đi,
Trong xe ai ngáp tiếng thì kêu la.
Thưa rằng Kim Liên Nguyệt Nga,
Không tiền mà hút tầm cha phủ đường.
Bị lủ ác đảng gian cường,
Bắt mà giựt nhựa toan đường hại nhân.
Xin theo về yết phụ thân,
Cha cho thẩu bạch báo ân tai nàn.
Tiên rằng quân tử nuốt khan,
Ngáp ghiền cú rũ theo nàng khôn đi.
Nàng Nga nghe nói vân vi.
Trao ống cho đó ta thì đền ơn.
Tiên rằng nhựa vỏ là hơn,
Làm sao giải đặng ghiền cơn bây giờ.
Trao ống Vân Tiên làm ngơ,
Nàng Nga trao nhựa chàng quơ nuốt liền..."
Nghe cách đọc trơn
tru và đầy hứng thú của Cậu Hai, Năm Dậu
bỗng thấy tội tội, chú an ủi mà mắt ngó ra
hàng bông bụt ở ngoài xa lập loè đom đóm.
"Thôi bỏ mấy cái
chuyện Vân Tiên nầy nọ đó đi. Ai có lý ai vô lý làm
sao tách bạch cho phân minh. Sự việc trừu tượng
càng bàn càng không cùng. Càng lý luận nhiều càng mắc vạ
miệng, mích lòng nhau. Người biện thiệp
được chúng nghe mà không trọng. Ngoa ngôn xảo ngữ
hại lòng nhơn, tổn phước, cái tâm càng lúc càng sa đà đi. Sẵn có đồ nhắm cậu
đem lại hồi nãy, mai tới đây mình nhậu
sương sương chơi. Nhậu lai rai ngày nghỉ
cũng thú vị, nhưng phải có đồ ăn cho thẳng bụng để khỏi
say. Làm thầy giáo làng nầy cả chục năm nay, giờ
mới gặp được người chữ nghĩa
như cậu là một. Ứng đối như lưu,
sách vở bất luận cuốn nào cũng biết! Lóng
trước tôi thường nhậu với ông thầy Huân
đổi tới từ miệt Cờ Ðỏ, nhưng lóng
rày ông ta ưa bàn bài thơ "Con Cóc" mà nói là hay, bài ca
dao "Thằng Bờm" mà nói về tinh thần vô nhiễm,
vô cầu, vô úy. Nghe bắt muốn cải, làm bữa nhậu
mất hứng."
Ðêm Gò Xoài yên tĩnh, mấy
cây gòn ngoài ngõ trái rụng nhè nhẹ, âm thanh mường
tượng, quen lắm với cảnh vật mới nghe
được mơ hồ. Trong nhà tiếng Thằng Cò nói
vai Ba Bành trong thơ-tuồng Trương Ngáo vang vọng ra
tới ngoài nầy. Nó rán gân cổ lên xuống bổng trầm
làm cũng ra tuồng bộn:
"Thiếp nay Liễu thị,
thêm hiệu Ba Bành. Việc làm hồ hổn quá chằn tinh,
nghề đôi mách xứng hơn xốc lá. Như thiếp
khéo biết làm nem làm chạo, tài cũng hay bán bộ bán thuyền....."
* * *
Năm năm trời trôi
qua kể từ ngày thằng Thành không léo hánh tới nhà con
Kén nghe nói thơ nữa. Tới mà làm gì. Má nó làm sao dám hỏi
con Kén cho nó. Thiếu tiền nhà người ta ngập
đầu nay lại tính che mặt mo tới hỏi con gái
người ta về làm mọi cho mình hay sao? Nó còn gặp
con nhỏ cả chục lần nữa sau bụi môn gần
sàn nước của một người lối xóm trong
vòng nửa năm sau đó. Lần nào bên vai áo nó cũng
ướt mèm nước mắt với tiếng khóc
rưng rức của con Kén. "Thằng cha cậu Hai mua
lòng ông già tía em dữ quá. Hai người nhậu say ly bì mỗi
tuần hai ba lần. Em bị đòn không biết lần thứ
mấy rồi. Bầm dập mình mẫy hết. Anh tính sao
thì tính, chớ cái điệu nầy láng cháng em phải làm
vợ thằng cha cậu Hai đó. Tía em hỏi ngày một...
Nhiều khi đổ liều, cho đánh, bất quá chết
là cùng nhưng tội nghiệp bà nội quá. Mỗi lần
thấy bà năn nỉ tía bớt tay em không cầm
được nước mắt." Nghe ẻn nói nó thiếu
điều muốn đạp đổ hết thế giới
nầy cho tang hoang, nhưng ngó lại phận mình hèn mọn
bọt bèo, không quyền thế tài cán. Thúc thủ, tính không
ra kế, nó ngồi thở dài thườn thượt.
"Mãng lo bận
bịu mẹ già,
Tính toan không được ruột rà héo don.
Dẫn em đi trốn được rồi,
Mẹ già bỏ lại vui duyên sao đành?"
Chỉ biết cầm tay người yêu ngó vô hai ngôi sao trời
đậu trong cặp mắt long lanh nước. Câu hát chờ
cho trăng lặn mà Cậu Hai Xách-Lu dẫn ra ngày xưa hiện
ra trong trí nhưng nó không lòng dạ nào làm gì hết. Vân Tiên bạt
mạng của người bình dân ngoài đời
đưa tay ra đặt vào chỗ
không thể đặt, bóp vào chỗ không thể bóp thì
được. Thằng Thành mới lớn lại
đương buồn rười rượi, ruột gan
nát ngướu đâu có tay nào để
đưa ra, đành làm thứ Vân Tiên sách vở, nghiêm chỉnh
trong vòng đai lễ giáo. Lần nào cũng vậy, tới
lúc sương xuống lành lạnh hay khi sao Mai chênh chếch
mọc, con nhỏ mới bớt khóc, hai đứa bịn
rịn chia tay hẹn hò lần tới.
Nay con Kén đã bận bịu
con cái tay xách nách mang, không còn thấy ngại
ngùng gì khi được thiên hạ kêu tưng là cô Phó
Hương Quản như buổi đầu. Nó thì vẫn
là thằng Thành đắp mương mướn, bẻ dừa
thuê, tát đìa ăn công mớ tôm cá chót, làm những công việc
không tên cho người làng trên xóm dưới. Miếng ruộng
biền mấy công nhỏ xíu hai má con làm quần quật suốt
năm mà huê lợi đâu có bao nhiêu. Làm thêm cái bàu rau súng, mỗi
lần cắt bỏ mối, bèo cám bám đầy đầu
đày cổ mà nghèo vẫn hoàn nghèo, nhà vẫn là căn nhà
lá xiêu vẹo thuở nào khi nó mới chớm biết yêu.
Cậu Hai, chồng con Kén, ăn nói bẩu lẩu bô lô nhưng không thù vặt,
lúc nào gặp nó cũng vui vẻ bổ xua, thấy nó mặt
mày bí sị thì nheo nheo mắt thân tình như an ủi người
bại trận. Có khi cậu còn đọc thơ: "Bắt
lươn ai nắm đằng đuôi, bởi anh vô phận
lươn chùi xuống hang" hay "Bầu sao anh để
trên dàn, duyên anh xe lỏng em phụ phàng duyên anh".
Lần nào nó cũng mỉn
cười thông cảm với cái hể hả của cậu
nhưng trong lòng lại có niềm vui riêng dầu rằng vết
thương tình đổ mủ trở lại. Mẹ họ,
tôi vô phận hay anh nhờ cha mẹ giàu có được
cho đi học một mớ chữ, không nên thân nên hình gì
nhưng so với người vô phước phải sống
lòng vòng ở đây từ nhỏ tới lớn, anh
cũng hơn được nhiều. Gặp thời bọn
ngoại nhơn cần tay sai, nó cử
anh làm chức nầy chức nọ trong làng trong xóm, anh nghiễm
nhiên có chức có phận. Gia đình con Kén sợ bóng sợ
gió, phần thầy Năm Dău thích làm xui với nhà giàu,
ham nhậu nhẹt với anh nên gả ép con. Nó bị tía nó
đánh đập chết đi sống lại bao nhiêu lần
nó mới ừ anh có biết không? Thân người ta con gái
mà đòn bọng, bầm dập tháng nầy qua tháng khác thì
sao mà chịu cho thấu! Mẹ họ, tình tôi bời rời
không dính, tơ duyên tôi xe lỏng lẻo
bị tuột hay anh tước mối tơ duyên gắng
bó của tụi tôi ra, xe cái tơ duyên áp đặt của
anh vô đó? Tôi biết ruột gan con mèo của tôi mà. Bao nhiều
lần ngồi cùng nhau dựa bụi môn, muốm ẵm muốn
bồng, muốn nắn muốn bóp lúc nào cũng được,
làm gì nó cũng cho cũng ừ mà tôi có thèm làm đâu. Còn y
nguyên cho anh để ngày nay anh có dịp hí hửng. Ngó cuộc
diện tôi biết hai đứa có tình yêu thì được
nhưng duyên chồng vợ thì không ngơ. Các hữu kỳ
phận. Quan trọng là cái tình, cái hồn của nó. Bây giờ
tuy là chồng nhưng anh có biết cái tình, cái hồn nó nằm
ở đâu đâu nà! Và lần nào cũng vậy, nó bắt
tay bổ xua Thầy Hai Phó Hương Quản
mà lòng thương hại cho kẻ đến sau. Dầu
là đến sau trong tâm hồn một người con gái
quê.
Nhiều lúc khi Thầy Hai
Phó Hương Quản đi rồi, nó thơ thẩn ngâm
nga "Vân Tiên ngồi dựa bụi môn, chờ cho trăng
lặn..." rồi chưởi đổng:
"Mẹ họ, cái quí nhứt
trong tình yêu, cái tình tứ tuyệt vời của đời
trai là con mèo đầu đời của mình đồng
lòng ra ngồi dựa bụi môn với mình, đồng lòng
cùng ngồi chờ trăng lặn để nói chuyện
sang đàng, tuy không đâu vô đâu nhưng thỏa lòng mong
nhớ. Núp lén trong bụi trong bờ, đợi con gái
người ta đi qua ơ hờ, làm ba cái chuyện kia thì hay ho gì đâu mà phải khổ công
đợi chờ trăng lên với trăng xuống."
Nó cười khan một
mình. Má nó xán bịnh nặng mấy tháng rồi mất cả
năm nay. Xóm Gò Xoài giờ đây mỗi bóng cây dáng nắng,
từng ánh trăng con nước, từng tiếng vạc
sành kêu hay cú rúc đều như chứa chất mối u
tình nặng trĩu lòng nó, nặng nhưng vẫn còn đủ
đẹp để lôi chưn nó lại không cho cất
bước giang hồ tìm quên.
Thầy Nguyễn
Văn Sâm