Cây Sầu Riêng Vườn Cũ
Thầy Vơ Tấn Phước
Tôi rề lại
cái băng cây, ngồi xuống ở đằng
đầu. Cái băng được làm bằng tấm ván
dầy, các chưn
được đóng dính luôn xuống đất. Tấm ván được cưa
cắt rất thô nhưng v́ nhiều người ngồi
tới ngồi lui nên nó trở thành trơn láng.
Ở trại chuyển tiếp để đi
định cư, ai cũng thích đến đây, v́ ít ra
tại vị trí nầy, người ta có thể nh́n ra
ngoài thấy được một khoảng trời
nhỏ và ở dưới kia,
cái sườn đồi thoai thoải có vài mănh
vườn, cây cối xanh mát.
Ngồi
kế bên tôi là chú hai thợ bạc, quê ở Sóc Trăng.
Mỗi lần ra đây, tôi đều gặp chú.
Khí hậu Mă Lai thiệt là
kỳ cục. Ban đêm, trời lạnh teo
ruột teo gan, ngủ phải đắp mền. Ban ngày
trời nóng như đổ lửa, hơi nóng hừng
hực từ sáng tới chiều, mồ hôi tươm ra
đầy người. Ở
tại lều không cách ǵ chịu nổi nên ai cũng t́m
nơi để trốn nóng. C̣n chỗ nào lư tưởng hơn chỗ nầy.
Cái băng núp dưới bóng mát một bụi tre um tùm,
ngoài kia dưới
sườn đồi là phong cảnh kỳ thú. Thiệt ra ở vùng nầy c̣n
nhiều nơi cảnh vật đẹp hơn nhiều
nhưng dân tỵ nạn bị giới hạn trong ṿng rào
kẽm gai nên đâu có được ra ngoài mà đi đó
đi đây. Có mấy người đi
chữa bịnh về kể lại rằng ở ngoài kia, thành phố đẹp
đẽ, sang trọng, sạch sẽ, tiện nghi. Riêng tôi và chú hai thợ bạc th́
chỉ biết xứ Mă Lai qua cái khung trời nhỏ xíu
nầy.
Tôi
ngồi ở đây mà đầu óc ở đâu đâu.
Cái vùng đất mới mà tôi
sẽ đến th́ xa lạ quá, nơi đó có vẽ
hấp dẫn lắm. Có nhà lầu chọc trời, có xa lộ thênh thang,
có tuyết rơi trắng xoá, có đủ mọi thứ
vui. Tôi tưởng tượng ra bao cảnh
kỳ lạ mà tôi sẽ được mắt thấy, tai nghe trong một ngày
rất gần. Nhưng có anh bạn đi trước,
gởi thơ về trại, trong có đoạn viết
"...vừa bước ra khỏi máy bay như đi vào
cái tủ lạnh, mũi thở ra khói, tay chưn tê cóng..," tôi chợt
thấy ghê quá, quay qua chú hai thợ bạc:
- Mai mốt qua bển, chú
sợ lạnh hông chú hai?
- Sợ chớ thầy tư. Ở nhà tôi lúc nào cũng tắm bằng
nước nóng như mấy ông ghiền thuốc
phiện. Tại không
nước nào nhận nên tôi đành phải chịu đi
Canada. Tuổi già
xương cốt chịu lạnh dở lắm.
Người ta nói ở bển,
xin lỗi thầy tư nghen, đi tiểu ngoài
đường, nó đóng lại thành cây nước
đá. Nghe nói sợ
quá. Mấy đứa
nhỏ th́ khoái chí. Tối
tối tụi nó rủ nhau đi đến hội
trường coi chiếu phim. Thấy tây tà trượt tuyết với nhảy
đầm, coi bộ tụi nhỏ chịu dữ.
Tôi
nh́n chú hai thợ bạc. Chú ốm người, da xanh mét, mặt
xương xương, dáng khắc khổ.
Muốn gợi chuyện cho vui, tôi nói:
- Th́ lần hồi rồi
cũng quen. Người ta
chịu được th́ ḿnh chịu được, có ǵ
mà lo. Tôi với chú qua
bển, ḿnh học một khoá nhảy đầm với
tập trượt tuyết là xong hết. Người ta tới đâu ḿnh
tới đó. Vượt biên nguy hiểm,
chết sống vầy mà ḿnh c̣n làm được,
nhằm nḥ ǵ ba cái lẻ tẻ đó!
- Ư thôi thầy tư,
thầy tuổi trẻ th́ c̣n được, tôi trên năm
mươi rồi, tiếng Tây tiếng Mỹ một
chữ cũng không biết, nói chi tới việc ôm
đầm mà nhảy nhót.
- Vậy chú chịu
cực, chịu khổ lặn lội qua đây để
làm chi?
Chú hai nh́n ra xa trả
lời ngập ngừng:
- Tại bên ḿnh khó sống
quá, vừa nhức đầu, vừa nghẹt thở, nên
phải đi. Chớ vui vẻ
ǵ. Tôi đâu có
muốn nhưng hoàn cảnh bắt buộc. Thầy tư nghĩ coi, cái tiệm
thợ bạc nhỏ xíu cũng bị tịch thâu.
Thôi đành dẹp kềm,
dẹp búa. Tôi làm đơn xin về quê làm
ruộng. Nhà nước cũng
không cho, bắt phải đi xây dựng kinh tế mới.
Cái chế độ ǵ có mắt không được nh́n, có
tai không
được nghe, có miệng không được nói, th́
ở lại làm ǵ. Nói thiệt
với thầy tư, tôi ngồi đây mà đầu óc
vẫn nhớ Băi Xàu. Trước
nhà tôi có cái rạch nhỏ, chiều chiều ra đằng
trước câu cá, cũng đủ vui. Lớn
tuổi rồi, đâu c̣n ham muốn ǵ nữa!
Nói
xong, chú ngó mênh ngó mông. Chợt chú đưa tay chỉ xuống phía
dưới sườn đồi, hỏi:
- Cái vườn ở
dưới đó trồng cây ǵ mà cành lá xanh um?
Tôi nh́n theo, trả lời ngay:
- Cây sầu riêng đó. Mấy cây nầy mới trồng
chừng ba bốn năm, c̣n nhỏ chưa có trái.
Nếu lớn hơn một chút
th́ mùa nầy đă có bông rồi.
Tôi
nh́n cây sầu riêng Mă Lai lá nhỏ nhưng tàn rậm hơn
sầu riêng ở Việt Nam. Thấy khu vườn nầy ḷng tôi đâm
ngẩn ngơ. Quê tôi
là xứ của sầu riêng, măng cụt, bây giờ nó ra
sao?
Tôi quay qua hỏi chú hai:
- Ủa, chú chưa bao
giờ thấy cây sầu riêng sao? Chú có ăn được sầu riêng không? Có nhiều người hễ nghe
tới mùi là chạy mất, họ nói hôi không chịu
nổi.
- Tôi khoái lắm chớ.
Cứ tới mùa trái cây là mua mỗi lần cả chục
kí, ăn tới
mờ con mắt... Nhưng tiếc quá, tôi chưa có dịp
đi vườn để thấy cây của nó...
Tôi bèn mô tả cây sầu
riêng cho chú hai biết:
- Thông thường th́
ở bên ḿnh, cây trung b́nh có thân lớn cở cột nhà, cao
hơn cột đèn đường chút xíu, tàn thưa mà
rộng, mùa có trái nh́n thấy mê lắm. Trái nó treo lủng lẳng đầy cành, gai
đâm tua tủa. Những
trái c̣n non nhỏ cở trái cau, trái quít, thường bị
rụng rải rác quanh gốc. Hồi nhỏ
tụi tôi lượm lấy, bẻ mấy cái gai nhọn,
cắm lên càm... để làm ông già râu!
- Trái nó to quá mà đầy
gai, rủi nó rụng trúng đầu th́ chắc chết!
- Vậy mà h́nh như
chưa có ai bị rớt bể đầu v́ sầu riêng.
Chỉ có mấy anh đi ăn
trộm mới sợ thôi v́ trái nó chỉ rụng vào
nửa đêm về sáng. Trái sầu riêng chín rụng ăn mới ngon. Nếu cắt cuống sớm, c̣n
non ăn lạt nhách, nhiều khi bị sượng.
Người sành điệu
họ lựa chọn kỹ càng khi mua. Phải
là thứ vỏ mỏng, nhỏ hột, cơm dầy màu
mỡ gà, ăn cái
vị nó beo béo, đăng đắng mới đă.
Chớ ăn sầu
riêng mà lựa thứ cơm ngọt ngay, th́ ăn chừng
vài múi là ngán ngược. Ăn
buổi sáng, buổi chiều c̣n nghe mùi thơm.
- Mà chú hai ơi, ăn sầu riêng mà ăn
một ḿnh cũng chưa đủ ngon. Phải đi vào
vườn với một cô bạn gái dễ thương,
lựa một nơi im mát, gom cỏ khô lại làm đệm,
khui trái sầu riêng chín thơm nực nồng, cầm
từng múi bằng năm ngón tay, ăn hết rồi c̣n
liếm cơm c̣n dính trên các ngón tay, mút chùn chụt, nh́n nhau
mà cười... mới đă thèm.
- Sao tả cảnh nghe mê
quá vậy. Chắc thầy tư ăn sầu riêng kiểu đó hoài?
- Phải được
như chú nói, cũng đỡ. Nhiều
khi tôi nghĩ tới c̣n tức ḿnh. Hồi đó
tới giờ, ngồi dưới gốc cây sầu riêng
th́ nhiều, c̣n ăn
như vậy th́ chưa bao nhiêu. Bây giờ ngồi đây, nhớ tới kỷ
niệm mà trong ḷng nao nao. Lúc đó tôi vừa
được hai mươi tuổi...
o o O o o
Tôi gặp lại
Phương do một sự t́nh cờ. buổi chiều hôm đó, trời
vừa sẩm tối. Tôi ở lớp học ra, đi ngay
đến ngả tư đầu đường,
để đón xe
về tỉnh nhà. Chiếc xe
lô ngừng lại. Tôi nh́n vào xe,
thất vọng, trong khoang không c̣n một chỗ trống.
Người ta ngồi đen nghẹt, chen chúc nhau. Anh lơ xe mở cửa, nhảy xuống kéo tay
tôi, đẩy vào. Tôi cố chen
vào trong. Có vài tiếng cằn nhằn nho nhỏ:
- Xe chật cứng,
chỗ đâu mà chứa nữa!
Tôi vừa ngồi xuống
vừa nghe bác tài xế trả lời:
- Bà con cô bác thông cảm.
Chuyến chót hổng rước, người ta phải
ngủ lại Sài G̣n sao ?
Thế
là đâu vào đó. Ai
nấy đành chịu chật. Tôi bị kẹt cứng tư bề.
Phía trước, phía trong, phía sau là người ta, c̣n bên
phải là cánh cửa xe
bằng sắt. Tôi không có cách ǵ để đặt chưn cho gọn. day qua, trở lại,
sửa tới, sửa lui, cũng không ổn thoả chút
nào. Nhờ xe chạy
có được chút ít gió mát. Ánh sáng về đêm của
thành phó lấp loáng qua cửa xe.
Đèn quảng cáo xanh xanh,
đỏ đỏ. Đèn đường sáng
trắng nhợt nhạt. Bầu
trời lấp lánh đầy sao. Chiếc xe c̣n chạy loanh quanh
chưa ra khỏi thành phố. Tôi
yên chí nó sẽ chạy một mạch về tới
tỉnh. Chật quá
rồi làm sao chứa được nữa. Nào
ngờ, qua một góc phố, chiếc xe từ từ ngừng lại. Có
tiếng ồn ào:
- Trời đất ơi,
cái xe nhỏ xíu như vậy, bác tài tính chứa bao nhiêu mạng ?
Tôi
thất vọng. Nếu
có thêm người, tôi sẽ bị dồn vào trong.
C̣n đâu mà nh́n thấy phong cảnh bên đường
với gió mát trăng sáng. Chưa kịp phản ứng ǵ,
th́ cửa xe đă
mở, anh lơ nhảy xuống, đẩy người
khách mới lên chỗ tôi. Tôi bắt buộc ở cái
thế phải ép sát vào bên trong để nhường
chỗ. Đúng là hộp cá ṃi.
Hành khách bị ép như mấy con cá nằm sắp lớp,
hết cục cựa. Bác tài vừa cho xe chạy, vừa cam kết:
- Thôi đủ rồi,
không rước nữa. Bây giờ th́ xe hơi chật. Xe chạy một hồi, nó lắc xuống
đâu vào đó. Bà con cô bác thông cảm!
Không
thông cảm với bác tài cũng không được.
Trời tối rồi, không lẽ bước xuống xe để ở lại
Sài g̣n đêm nay. Mà bây giờ th́
tôi đâu c̣n muốn bước xuống nữa.
Người hành khách vừa mới lên là một cô gái c̣n
trẻ, trong ánh sáng mờ mờ, tôi không thấy rơ nhưng
có lẽ nàng đẹp lắm. Tà áo vàng được vén
khéo qua bên, nàng cố thu
ḿnh cho nhỏ gọn lại, dáng khép nép. Riêng tôi v́
đụng chạm bên người nàng nên loay hoay, xoay ngang
người lại cho thư
thả. Ở cái thế nầy tôi thấy thoải mái
hơn nhưng đồng thời cánh tay phải như ôm lấy người
nàng. Tôi mắc cỡ quá, đâu có dám đụng, đành
phải vói tay qua gác
trên cửa xe cho đỡ mơi. Trọn nửa người
bên phải tôi ép sát nửa người bên trái của nàng. Tôi nghe một cảm giác êm ái
bềnh bồng. Tôi
đâu có ngờ hoàn cảnh trái ngang như vậy.
Lần đầu tiên ngồi
gần một cô gái lạ, tôi bối rối quá.
Tôi thử nghĩ hằng
chục câu hỏi để mong làm quen với nàng, nhưng
thấy câu nào cũng vô duyên. Thôi đành ngồi im, làm ra vẻ đứng
đắn nghiêm nghị.
Bỗng chiếc xe quẹo gắt ở
một khúc quanh, người nàng đè hẳn lên tôi. Như
để đỡ mắc cở, cô nói bâng quơ:
- Chiều thứ bảy
nào xe cũng chật
nứt! Tôi bèn bắt chuyện:
- Dạ, dạ, cũng
hơi đông.
- Chút xíu nữa là tôi đón
hụt rồi. Từ trường ra tới đây kẹt
xe quá!
- Chắc cô học
trường Luật? Cô ta hơi nghiêng đầu qua tôi,
hỏi lại:
- Sao anh biết? Tôi thấy
vui trong bụng, có dịp để nàng thấy tôi thông
minh:
- Đa số sinh viên
luật thường đón xe
chỗ cô vừa lên. Nàng cười nhẹ nhàn, hàm răng
trắng bóng đều đặn:
- Dạ không phải, tôi
học ở Văn Khoa. Tôi
đoán trật lất. Nhưng không hề ǵ. Miễn nói chuyện được với nàng là
vui rồi. Tôi tuy không học ở đó,
nhưng cũng biết chút ít:
- Xin lỗi, tôi hơi ṭ ṃ,
cô đang theo chứng chỉ nào
?
- Dạ, tôi học lớp
dự bị…
Vậy là cô được
học với ông giáo sư Vương Hồng Sễn. Tôi
khoái được nghe ổng nói chuyện. Hễ sách nào có bài ổng viết, tôi đều
kiếm mua. Ổng rành về đồ cổ...
Chắc cô cũng thích các giờ
ông ấy dạy? Lại một lần nữa
tôi bị hố:
- Dạ, tôi sợ các
giờ đó lắm. Kỳ
rồi, tôi bị rớt v́ môn Văn Chương Quốc
Âm, nên kỳ nh́ phải thi lại môn nầy.
Tôi
không dám hỏi thêm. Tôi
suy nghĩ hoài cũng không hiểu tại sao cô ta lại
rớt môn Quốc Âm, cái môn được coi là dễ
hơn các môn khác. Vốn
ít nói và hay rụt rè, tôi lại đành ngồi im.
Thoang thoảng, tôi ngữi thấy tóc nàng có mùi thơm nhè nhẹ. Tự nhiên tôi cảm thấy trong
ḷng một xúc động bất ngờ. Trời đất nào xui khiến cho
tôi gặp nàng như vậy. Bây giờ tôi phải nói câu nào nữa?
- Chắc cô về tới
bến xe ?
- Dạ không, tôi xuống
Cầu Ngang. Tôi lại t́m được câu đối
đáp:
- Cô ở gần cái nhà ngói
đỏ, có cổng sắt sơn xanh không? đằng trước có bụi tre già
? Cô ta nghiêng đầu qua nh́n tôi:
- Chắc anh là bạn
học của anh B́nh! căn
nhà đó của tôi. Đoạn nàng chăm chú nh́n tôi, thoáng
do dự, nàng tiếp:
- Phải anh là anh Hưng
không, em là Phương đây !
Tôi vừa xác nhận th́ nàng líu lo:
- Trời ơi, sao lâu quá
không thấy anh xuống nhà chơi. Ba má em với anh B́nh thường nhắc tới
anh hoài.
Tôi ngạc nhiên sung
sướng. Không dè con nhỏ Phương ngày nào nhỏ
xíu, đen thui, mới có mấy năm mà lớn đẹp
như vậy. Những
chuyện năm trước bây giờ được tôi
và Phương nhắc lại. Nàng nói chuyện lanh lợi, duyên dáng. Tôi lần lần b́nh tĩnh hơn.
Tôi hỏi thăm tin tức B́nh, sau cùng tôi thắc mắc:
- Ông Sễn dễ lắm
mà! Tại sao Phương
lại bị kẹt môn Quốc Âm?
Phương phân trần:
- Anh Hưng thử nghĩ
coi, em vào vấn đáp, ổng đưa em quyển
"Truyện Đời Xưa" của Trương
Vĩnh Kư, biểu em đọc bài "Anh chàng sợ
vợ". Cái chuyện anh chàng lùi khoai lang
trong tro nóng cho chín để ăn vụng, nào ngờ
chị vợ về nửa chừng, anh ta sợ quá bèn
cột túm ống quần lại, bỏ cũ khoai lang vào
trong đó để dấu, nóng quá bèn nhẩy cà tưng.
Đọc đến đây, ổng bảo ngừng
lại và hỏi em:
- Nhẩy cà tưng là nhảy làm sao "
Em c̣n đang suy nghĩ
chưa kịp trả lời, th́ ổng hỏi tiếp:
- Đâu cô nhảy cà
tưng cho tôi coi!
-
Anh Hưng thử nghĩ cả cái pḥng thi rộng mênh mông.
Ở dưới cả mấy
chục người ngó lên, em mắc cở quá, làm sao dám
nhảy. Chờ
hồi lâu không được, ổng nghĩ là em không
biết, nên cho dưới điểm trung b́nh. Em đành phải thi lại kỳ
hai.
Tôi an ủi nàng:
- Gặp tôi mà ổng
biểu nhảy th́ cũng rớt. Ai lại nhảy cà tưng trước
mắt mọi người, kỳ thấy mồ.
Phương cười nhẹ:
- Lạy trời cho mai
mốt đừng gặp cái "Anh chàng sợ vợ"
nữa.
Tôi chớp ngay lấy cái
câu nói hớ đó, hỏi lại:
- Vậy chớ
Phương muốn gặp anh chàng như thế nào, cho tôi
biết các điều kiện đ̣i hỏi....để
kiếm cái đầu heo.
Phương chống
chế:
- Ơ Anh Hưng, không
phải vậy! Mấy năm
rồi gặp lại, anh vẫn y như hồi xưa,
cứ phá em hoài.
Từ
đó tôi thường xuống Cầu Ngang thăm gia
đ́nh nàng. B́nh th́
đă vào quân đội, ít khi có nhà. Má nàng lần
nào thấy tôi, cũng nói:
- Khi nào rănh rổi cháu
xuống đây chơi, đừng ngại ǵ hết,
thằng B́nh đi lính, hai Bác nhớ nó quá. Nhà đơn
chiếc không có ai.!
C̣n
Ba nàng th́ ít nói, thường dẫn tôi ra sau vườn,
bẻ trái cây cả đống bắt ăn.
Phương xinh xắn, dễ thương, lăng xăng làm các món ngon để
đăi khách. Chúng tôi thường ăn dưới gốc cây sầu riêng
lớn. Vườn nhà
Phương rất rộng, các mương nước
nhỏ đầy rong. Nước trong vắt,
thấy được những con cá băi trầu,cá lia thia, cá ĺm ḱm, lội
nhởn nhơ dưới đó. Đất đen mầu mỡ, cây dâu, cây măng
cụt, cây sầu riêng, có những tàn lá xanh um, mát
rượi...
Tôi ngồi mà
nghe ḷng khoan khoái, mắt nh́n ánh nắng lấp lánh qua các
khoảng lá thưa. Đâu đây có con chim hót trên
cành, tiếng nghe trong trẻo quá. Phương cũng
như chim líu lo:
- Trên nhà anh Hưng có
vườn không? có
trồng nhiều bông không? đôi
khi lên tỉnh, em muốn ghé chơi cho biết mà sợ...
anh Hưng không thèm tiếp.
Má Phương mắng yêu
con gái:
- Cái con nhỏ nầy,
mầy làm như cậu Hưng là người dưng!
Phương vừa ngó xéo tôi, vừa trả lời mẹ:
- Th́ má thấy đó, hôm con
gặp anh Hưng trên xe,
ngồi gần cả giờ đồng hồ, ảnh
đâu có thèm nh́n... bà con!
Tôi không biết trả
lời ra sao, đành cười trừ! Ôi! những buổi trưa ấm cúng, ḷng
vui như mở hội. Tôi vẫn đắn đo,
rụt rè, chưa dám ngơ ư với Phương. Học hành
chưa thành, công danh chưa toại, bây giờ c̣n quá
sớm để nói chuyện yêu đương...
Những ngày tháng kế
tiếp qua mau. Ba má Phương sẵn có vốn, mở
thêm căn tiệm cầm đồ ngoài chợ. Ngoài những giờ học,
Phương c̣n phụ mẹ buôn bán, trông nom công việc
sổ sách. Tôi lại
có dịp gặp gỡ nàng nhiều hơn. Chúng tôi trao đổi chuyện
trời mưa, trời nắng, chuyện học hành, thi
cử. Toàn là
chuyện đâu đâu, vậy mà cũng có để nói
hoài, không chán. Có lần Phương hỏi tôi:
- Anh Hưng ơi, hiện
thời anh thương ai nhứt
? Tôi trả lời, cười cười:
- Th́ Phương biết
rồi, tôi nói hoài! Đời tôi chỉ thương có chú
lùn bán hủ tiếu dưới gốc me...
Mặt Phương hơi
phụng phịu:
- Vậy chớ mấy
người đẹp của anh, không ai bằng chú lùn sao?
Tôi giảng nghĩa:
- Đẹp đâu có ăn được. C̣n
hủ tiếu cây me ăn
ngon, cho nên tôi thương ... chú lùn.
Phương
nín thinh, bậm môi tức tối. Tôi muốn
giải hoà cho khuây khoả:
- Phương ơi,
mấy ngày ở nhà không có buôn bán, em làm ǵ?
- Em đi chợ, mua cá mua
cua.
- Rồi sau đó
Phương làm ǵ nữa ?
Nàng trả thù tôi, trả
lời tỉnh rụi:
- Th́ em làm cá làm cua.
- Vậy chớ không lúc nào
Phương nhớ tới bạn bè chút xíu nào sao?
Phương bật
cười, tươi như đoá hoa buổi sáng:
- Có chớ, lúc ghé ăn hủ tiếu cây me
th́ nhớ tới anh! Tôi vừa
làm điệu bộ thất vọng, vừa nh́n sững
mặt nàng. Phương
cười, khuôn mặt vuông vuông, rạng rỡ, làn da
trắng mịn màng. Tóc
cắt ngắn gọn, cái mũi thẳng cao, xinh xắn.
Cặp môi trề trề.
Hèn chi nàng nói chuyện tía lia.
Ông trời sao thiệt bất
công. Mặt
Phương không một khuyết điểm. Tất cả đường nét
đều hoà hợp, thêm vào đó là cái duyên dáng nữa.
C̣n tôi th́ vừa xấu, vừa
đen, được quen với nàng, đời tôi c̣n
hạnh phúc nào hơn. Do câu chuyện đẩy
đưa, bất chợt tôi thấy Phương dễ
thương làm sao. Trong một thoáng ngẩn ngơ, tôi nói
đại:
- Cô chủ tiệm cầm
đồ ơi, sao cô đẹp quá vậy? Tiệm cô cầm vàng bạc, châu báu ngọc ngà mà
có cầm "người ta" không? Phương trố mắt nh́n tôi.
H́nh như nàng chưa hiểu câu
nói. Cặp mắt nàng
tṛn to, đen bóng, ngây thơ. Tôi nói tiếp:
- Có một sinh viên nghèo,
học hành dang dở, hoàn cảnh túng bấn, cần
cầm tạm để đủ tiền ăn học,
miễn có cơm canh ngày hai bửa, mai sau có nghề
nghiệp vững chắc, nguyện sẽ làm "tôi
mọi" để trả công lẫn lời.
Phương hiểu ra,
cười nho nhỏ, thủ thỉ bên tai tôi;
- Anh Hưng muốn cầm
thiệt không đó? Tiệm
của em không khó khăn như mấy tiệm khác đâu.
Miễn là ṣng phẵng, siêng
năng, trả nợ suốt đời...
o o O o o
Từ đó,
tôi và Phương thương nhau. Rồi chiến tranh ngày một tàn khốc.
Tôi phải vào quân ngũ,
trôi nỗi ngược xuôi. Những
cánh thơ nồng nàn thay thế những lần gặp
gỡ. Phương
thường viết cho tôi biết, nàng đă phải
nhiều lần từ chối những mối mai xung quanh.
Tôi run trong bụng. Làm sao nàng có
thể chờ đợi và nếu chờ th́ đến
bao giờ. Thân tôi, tôi
c̣n lo chưa xong. Cưới
Phương bây giờ, chỉ làm khổ cho nàng,
điều mà tôi không muốn. Yêu Phương,
tôi muốn nàng được hoàn toàn sung sướng. Phương xinh xắn và dễ
thương quá, nàng đâu thể v́ tôi mà chịu khổ
cực. Rốt
cuộc rồi th́ tôi cũng phải chịu thua
định mạng. Một buổi sáng mùa thu, tôi nhận
được thơ cuối cùng của Phương. Vào
pḥng riêng, tôi xé thơ ra đọc. Nét chữ quen thuộc
dễ thương ngày nào, quay cuồng trước mắt
tôi: "...ba má bắt em phải lập gia đ́nh với
một người không quen. Giữa
t́nh yêu và gia đ́nh, em phải chọn một.
Gởi đến anh bức ảnh cuối cùng em chụp
bên gốc sầu riêng ngày nào... như nỗi ḷng em..."
Nước mắt tôi tự nhiên ứa ra, ràn rụa. Những chữ c̣n lại, mờ nhạt.
Cuối thơ Phương không kư tên, tôi đọc
được câu ca dao ở hàng dưới cùng:
Đêm khuya thắp chút dầu dư
Tim loang cháy lụn, sầu tư một ḿnh.
o o O o o
Câu chuyện đă trên hai
mươi năm rồi, bây giờ tôi c̣n nhớ lại
như in. Cái kỷ niệm ngày
xưa sao mà êm ái nhẹ nhàng quá. Tôi với chú hai thợ bạc, ngồi im lặng
bên nhau. Mỗi
người một ư nghĩ vụn vặt, tản mác.
Xa quê hương là xa hết
những cảnh, những vật, những người
thân yêu. Trước
mắt tôi, bây giờ cũng có cây sầu riêng. Nhưng đâu phải là cây sầu
riêng vườn cũ. Phương bây giờ đă có chồng, có con.
biết
được nàng hạnh phúc, tôi mừng lắm. Nhưng rồi vận nước
đổi thay. Hiện giờ vợ chồng
con cái nàng vẫn c̣n ở nguyên nơi quê xưa. Liệu nàng có đủ sức
khoẻ và nghị lực để vượt qua
những khổ nhục mà chế độ mới
đưa tới hay không?
Nhớ tới giờ phút
nầy h́nh ảnh của hằng triệu người
đang phải lam lủ, chân lấm tay bùn, cuốc xới
trên vùng đất khô cằn miền kinh tế mới để
phục vụ một thứ chủ nghiă ngoại lai, tim
tôi như muốn nghẹn lại:
- Chú hai ơi! mấy người c̣n
ở lại làm sao mà sống nổi với tụi nó?
- Rồi cũng phải
sống chớ thầy tư, hổng lẽ ... tự
tử chết! Con ngựa đua bắt đem đi kéo cày
th́ cũng như con ḅ, con trâu vậy!
Nghe
chú hai thợ bạc nói, tôi nghĩ ngay đến
Phương ngày nào. Trời đất ơi! cái sự thật sao mà chua
xót. Tôi đứng dậy
hết muốn nổi.
- Vậy th́ chừng nào dân
ḿnh hết khổ, chú hai? Hổng lẽ phải chịu
như vậy hoài! Chú hai thợ bạc vừa đi vừa
trả lời:
- Thầy tư đừng
có lo! Luật tạo hoá tuần hoàn hết
bĩ cực rồi tới thới lai. Như trái sầu riêng chín th́ phải rụng.
Ngày đó tôi với thầy
tư trở về, gầy dựng lại quê hương
cũ. Cầu trời cho nó đừng quá tang
thương, đổ nát...
Thầy Vơ Tấn
Phước
(Cựu Giáo Sư Trung Học Hoàng Diệu)