B́nh Dương, Một Ngày Tái Ngộ
Thầy
Vơ Tấn Phước
Buổi sáng Chúa Nhựt, đầu
năm dương lịch 1979, tôi ngồi tiếp chuyện
với bà Hai ở pḥng khách. Từ Búng lên B́nh Dương,
bà nôn nả báo cho tôi hay một tin vui. Đó là
cô Hà, con gái út của bà, vượt biên thành công qua bức
điện tín đánh về từ một phương trời
xa. Bà vui mừng nét mặt rạng rỡ.
Cầm miếng giấy nhỏ màu xanh lợt trong bàn tay run
run, bà nói th́ thầm bên tai tôi như sợ người khác
nghe được:
- Mầy coi nè, cái con nhỏ
thiệt không ư tứ. Chiều hôm qua nhận
được dây thép, xé ra đọc rồi tao muốn
nghẹt thở, xỉu luôn. Ổng nghe ồn
ào, chạy ra coi lại, th́ thấy nói nóù tới Mă Lai b́nh
yên. Thiệt hú vía! Mầy biết tại
sao không? Nó hà tiện, viết hai chữ "b́nh an" dính lại làm một. Tao ba chớp ba
sáng, đọc lộn là "bị nạn"... Mấy tuần nay, tao với ổng trông đứng
trông ngồi. Có tin, run quá, quáng mắt
đọc không ra chữ. Nói liền một hơi, rồi
ngồi thở một hồi, bà chắc lưỡi tiếc
cho tôi:
- Phải chi hồi đó mầy
tính được, đi chung một
chuyến với nó là xong rồi!
Tôi mừng cho cô Hà thành công
tới nơi an toàn, trong bụng cũng
thấy tiêng tiếc, phải chi liều gan một chút,
đi đại th́ bây giờ khoẻ rồi. Cô Hà dạy chung trường với vợ chồng tôi
và cùng bị cho nghỉ việc một lượt, v́ cái tội
lúc trước làm hiệu trưởng một trường
quận. Cô hiệu trưởng c̣n trẻ
măng chưa chồng. Có anh bạn
đồng nghiệp thầm thương trộm nhớ
mà không dám nói ra. Trước khi đi, cô tâm sự từ
giả - trách cứ cái anh chàng Thạnh cù lần, đàn ông
con trai ǵ mà nhát như thỏ đế!
- Ờ ờ,
anh Thạnh e ngại bị cô từ chối, ở tỉnh
nhỏ, người ta nói ra nói vô khó ḷng.
"Xưa kia anh ở cùng làng. Bởi anh chậm
bước nên nàng đi xa".
Bây giờ nhớ tới vụ vượt
biên, thấy câu hát đó quá đúng đối với tôi.
Cô Hà đă thoát được, c̣n tôi, tới
chừng nào? Đàn bà con gái, người ta chưn yếu tay mềm c̣n dám liều mạng
như vậy, trong khi đó ḿnh thân dài vai rộng mà cứ
do dự, lừng khừng th́ bao giờ mới tính chuyện
lớn được. Dầu sao th́ cô ấy,
một thân một ḿnh, cũng dễ tính. C̣n tôi th́ vợ
con đùm đùm đề đề, thằng Tâm Bi mới
có mười tám tháng, c̣n quá nhỏ để giải nắng
dầm sương, vượt qua bao sóng gió, rủi có bề
ǵ th́ sao? Nhiều đêm trằn trọc, nghĩ tới
nghĩ lui, tôi bàn với Duyên:
- Vợ chồng ḿnh khó mà sống
yên thân. Cái thế bắt buộc phải ra
đi, nhưng hoàn cảnh bề bộn của ḿnh, anh tính
không ra.
Duyên khuyến khích tôi
nhưng vẻ mặt buồn buồn:
- Hay là anh đi trước,
mẹ con em ở lại tính sau!
Làm sao mà tôi chịu
như vậy. Tôi và nàng mới cưới
nhau, vừa có được thằng con trai nhỏ.
Cuộc đời đầy bất trắc, quê
hương đất nước kể như tiêu tan, cái
t́nh yêu gia đ́nh chỉ c̣n lại có chút xíu đó, làm sao dám
liều lĩnh phiêu lưu, thành ra cứ hẹn lần hẹn
lữa, măi cho đến hôm nay, tôi vẫn c̣n ngồi thừ
trên ghế. Bà Hai trước khi ra về, c̣n dặn ḍ:
- Mầy tính ǵ th́ tính lẹ
lẹ đi, người ta lấy ghe lấy tàu đi từ
từ hết, đến lúc muốn đi th́ không c̣n chiếc
nào, khi đó làm sao xoay trở?
Tôi gật đầu nói nhỏ:
- Ngày nào con xuống Búng
thăm hai Bác, là ngày đó con từ giả... Con cũng muốn
quyết định dứt khoát nhưng có cái ǵ níu kéo lại.
Phải rời bỏ cái tỉnh B́nh Dương nầy, buồn
lắm bác Hai ơi!
o o O o o
Tôi dẫn cái xe đạp
ra ngoài, cái xe có gắn thêm cái yên nhỏ để thằng
Bi ngồi đằng trước. Nó c̣n quá nhỏ nên phải
ràng buộc cẩn thận. Trên đầu tôi
đội cái nón kết đỏ bầm, thứ nón của
lính nhảy dù, c̣n Bi th́ đội nón vải trắng có h́nh
mỏ neo của lính thuỷ, có quai để khỏi rớt.
Tôi muốn chở con đi một ṿng thành phố, để
nh́n cho hết, cho kỹ, cái nơi mà tôi đă sống gần
nửa đời người. Nơi đó,
có buồn có vui, có những h́nh ảnh thân yêu, có những kỷ
niệm thời thơ ấu. Như có một sợi
dây vô h́nh ràng buộc, trái tim tôi như thắt
lại khi phải quyết định xa quê.
Trưa đó,
trời nắng gắt, hai dăy phố chợ như bị
bỏ vô ḷ mà hấp. Hơi nóng bốc
lên hừng hực từ các mái ngói, mái tôn, mặt nhựa
đen mốc, những lề đường xi măng khô
cứng. Trước nhà bây giờ là
giang sơn của mấy bà bán gạo lậu. Họ
ngồi đông nghẹt, chen lấn nhau,
trước mặt là những thúng gạo trắng đầy
vun, các đống khoai đỏ, vàng đổ ngổn
ngang như đất đá vụn. Rải
rác đây đó, giống gánh vương vải. Giờ nầy khách mua đă thưa. Có vài cán
bộ áo trắng, bộ đội áo kaki màu cứt ngựa
xanh đùng đục, mang dép râu. Có người dắt xe đạp treo ṭn ten bó rau xanh dờn,
đi chen lấn các bà nội trợ, áo bà ba đen, nón lá. Tự
dưng nơi đây trở thành cái chợ trời ngang
xương. Ban đầu có vài ba người đàn bà lạ
mặt ngồi bán các thứ khoai, gạo, đậu, nếp.
Họ bày bán trên cái lối đi trước
nhà. Chợ th́ ở tuốt đàng kia,
sát cạnh bờ sông. Từ ngày mấp ổng
bỏ rừng về thành phố, toàn dân miền Nam đâm
thất nghiệp. Vợ con công chức quân nhân chế
độ cũ, chồng cha bị đày đi một
nơi khỉ ho c̣ gáy nào đó, ở nhà túng quẩn, phải
bương chải tảo tần, kiếm kế sinh nhai,
hầu sống c̣n qua ngày. Họ trở thành bạn hàng buôn
thúng bán bưng bất đắc dĩ. T́m chỗ ngồi
không được ở đàng kia, thôi
th́ giành dân lấn đất đằng nầy. Đằng
kia là chợ mà đằng nầy là cái
hành lang lát gạch bông bằng phẳng của dăy phố
nhà tôi.
Phía bên kia là công viên nắng
cháy xác xơ, hồ nước cạn khô, đáy đầy
đất đá, băi cỏ loang lổ úa vàng v́ không người
chăm sóc, chỉ c̣n trơ lại một cây khuynh diệp
cằn cỗi lưa thưa, đứng lẻ loi ở
góc sân. Tôi dẫn cái xe băng ngang qua đường, đứng
dưới bóng cây, nh́n trở lại bên nhà, nói cho Bi nghe, mặc
dầu biết nó không hiểu:
- Con nhớ nghe, cái nhà nầy
là nhà của Nội,. Cả đời ông nội
làm việc cực nhọc vất vả mới tạo dựng
được. Ba được nuôi nấng
lớn lên ở đây, con cũng vậy. Hồi nhỏ
ba ưa đi chơi, bị ông nội lấy dây nhợ cột
chưn vô cái cửa sắt. Mỗi khi gần
Tết, ba với chú Sáu, chú Bảy con phải lau chùi hết
mấy cái cửa đó. Cực lắm mà vui.
Mấy chậu sứ Thái Lan đầy bông đỏ để
trên lầu, mua ở vườn ương cây bên Thủ
Đức, đem về ba chiếc ra từng chậu nhỏ,
phải chăm sóc liên tục trong mấy năm mới
được xum xuê như con thấy...
Nghe tôi th́ thầm, thằng
nhỏ có biết ǵ đâu, u ơ mấy tiếng trong miệng
nhỏ xíu. Tôi nh́n cái bảng hiệu tiệm
của ba tôi. Những chữ bằng cây to, dầy,
sơn trắng, được cưa đục khéo léo,
đặt trên nền nâu đậm, vẫn c̣n sáng sủa
nổi bật như cái ngày đầu tiên thợ hồ
đến gắn vào tường. Lúc đó
tôi vừa mới lớn, ba tôi muốn có một cái bảng
hiệu coi cho được. Cái bảng
cũ trông thô sơ, quê mùa. Tôi phải bỏ
ra một thời gian dài, đi trên các đường phố
ở Sài G̣n để ăn cắp kiểu vở. Rốt cuộc chọn kiểu nầy. Tôi
đă đặt ông thợ mộc già, người Bắc,
điếc tai ở cầu B́nh Lợi
làm. Nói hoài, ông không hiểu, ra dấu đến mơi tay, cuối cùng phải dẫn ông đến
cái tiệm có bảng hiệu đẹp đẽ kia, rồi
xin phép chủ nhà, đo lấy kiểu mẫu.
Mỗi năm gần Tết,
tôi phải bắt thang leo lên, lấy vải
thấm nước lau sạch từng chữ cái. Hiệu tiệm và tên ba tôi rất dài, phải lau cả
buổi mới xong. Bây giờ, muốn
lau cũng không được. Làm sao c̣n được
cái công tác cực nhọc mà sung sướng đó nữa rồi!
Cha con tôi lần ra tới bờ
sông, theo con đường Bạch Đằng
nhỏ hẹp, có cái cầu tàu mục nát cạnh chợ
cá, những hàng cây dương già gốc nổi u sần
sùi, thân ngả nghiêng. Gió từ sông thổi lên nhè nhẹ,
mang theo mùi tanh tanh của sông nước.
Ánh nắng chói chang lấp lánh trên làn sóng bạc, phản
chiếu như hàng trăm hàng ngàn chiếc gương nhỏ
lăn tăn. Từng dề
lục b́nh xanh xanh trôi rập rềnh không biết về
đâu. Cuộc đời cha con tôi bây giờ sắp
sửa trôi dạt như đám lục b́nh nầy. Trưa
nay đứng bên ḍng sông chảy ngang qua chợ, trời
nóng hừng hực, cảnh vật lờ đờ, lặêng
thinh không thơ mộng chút nào, vậy mà tôi đâm nhớ
cái câu ca dao thời thơ ấu, nghe má đưa em trên
vơng:
Ra đi là sự đánh liều
Mưa
mai nào biết, nắng chiều nào hay.
Cái câu nầy
hơi kỳ lạ. Tôi nghĩ quản
nghĩ quanh. Những h́nh ảnh vụn
vặt, chắp nối. Không hiểu tại
sao tôi cứ nghĩ đây là câu hát kể lể tâm sự của
một cô thôn nữ nào đó v́ tiếng gọi của yêu
đương mà dứt khoát ra đi lấy chồng.
Theo chồng hay theo trai? Điều
đó đâu có ǵ quan trọng, cái quan trọng là họ yêu
nhau. Đă yêu nhau rồi th́ tương lai ra sao
cũng mặc kệ! Buổi sớm, buổi
chiều, nắng cháy hay mưa dầm, làm sao biết
trước? Giữa t́nh yêu nồng nhiệt,
cuống quít và cuộc sống lạnh lẽo, buồn
tênh, phải chọn một. Cô đă chọn
trong cái tâm trạng lo lắng, sợ sệt, bồn chồn.
Tôi cũng y như cô ta, nhưng cái t́nh của tôi có khác
đôi chút. Phải rồi, khác một chút xíu, ở chỗ
cô tự nguyện ra đi. C̣n tôi th́ ở cái thế bắt
buộc phải xa ĺa. Tôi cúi đầu nh́n xuống thằng
Bi, rồi chỉ cho nó cái cầu tàu bằng cây cũ kỹ
đă hư mục, một phần c̣n gác trên bờ hàng cột
xiêu vẹo, một phần ch́m sâu dưới nước.
- Con ơi, hồi nhỏ
tám, chín tuổi, ba b́ bà b́ bỏm lặn hụp, tập lội
ở cầu tàu, chỗ gần cây dương cụt đầu
nầy sâu lắm, có lần hụt chưn tưởng bị
chết đuối. Năm mười hai, mười ba tuổi,
ba đi chặt trúc làm cần, uốn căm xe đạp
làm lưỡi câu để đi câu lươn, không mang
dép guốc nên da chưn bị nứt nẻ, đất
śnh bùn dơ dáy, ăn lở loét, phải nhờ bà nội
lấy bă trầu đắp cho mới hết...
Để trả lời,
thằng nhỏ chép miệng ư ư... bàn tay mủm mỉm
như củ khoai ḿ, quơ quơ như muốn chụp lấy
vật ǵ trước mặt. Tôi nh́n lên phíc bên kia đường.
Ty Bưu Điện cũ kỷ già nua được xây cất
từ hồi Pháp thuộc, mái ngói đen mốc đầy
rong rêu, tường vôi loang lổ, chỗ vàng chỗ xám, cạnh
tường dây leo mọc chằng chịt, đứng
trơ trọi bên bờ sông như một ông kư về già lẻ
loi, buồn thảm kéo lê cuộc đời quạnh hiu.
Tôi c̣n nhớ rất rơ, lần đầu tiên được
sai đi bỏ thơ, ở nhà dặn ḍ kỹ lưỡng,
mua con c̣ mười lăm cắc để dán lên bao. Tôi
đến nơi đây, rụt rè hỏi mua được
tới mươi lăm con. Mừng rơn, nghĩ rằng
bửa nay nhà nước bán rẻ, sướng quá, le cái
lưỡi thiệt dài, thấm nước miếng dán một
con vô bao, cẩn thận đem bỏ vô thùng, xong rồi,
đem mười bốn con c̣n lại, về nhà khoe rùm
beng. Cũng cái thùng thơ rỉ sét nầy đă chứng
kiến cảnh tôi bỏ từng bức thơ màu hồng
yêu đương ấm áp, từng bức thơ màu xanh hy
vọng tương lai, gởi đến một cô bạn
gái đẹp đẽ dễ thương nào đó mà
chưa quen, tay run run, trống ngực đập th́nh tịch,
mắt lấm lét ngó trước ngó sau, sợ lũ bạn
quen bắt gặp.
Cái thơ đă bỏ vô
thùng mà c̣n ngó hoài, cứ lo sợ mất - xa sông cách núi lở
vời. gởi thơ sợ lạc gởi lời sợ
quên.
Tôi đạp xe ṿng qua bên
kia chợ. Người buôn kẻ bán lưa thưa. Đúng
là cảnh chợ chiều. Mũi tôi ngửi được
cái mùi chợ cá quen thuộc. Mùi khô cá mặn, mùi mắm, mùi
củ cải muối, mú tro diêm, mùi đường thẻ,
mùi thuốc bắc...và hàng trăm thứ mùi khác trộn lẫn
nhau, quện lấy nhau, tạo cho không khí nơi đây có một
cái ǵ gần gũi thân yêu. Tôi đă hít thở mấy chục
năm qua, từ thưở bé thơ cho tới khi khôn lớn.
Cái hơi hướng đó nó đă ăn tận vào buồng
tim thớ phổi. Tôi tin chắc rằng nếu phải xa
nơi đây, tạm ngụ ở một phương trời
vô định nào đó, tôi vĩnh viễn không bao giờ
t́m thấy được cái dư vị của những
ngày thơ ấu.
Đêm đêm cánh rụng lầu
ngà
Một
trời ly biệt để già nhớ thương (Vũ
Hoàng Chương )
Chiếc xe lăn bánh chầm
chậm trên đường phố. Bên nầy là đường
Nguyễn Thái Học, bên kia là Đoàn Trần Nghiệp.
Cũng thời là nhà cửa phố xá ngày xưa, nhưng có
vẻ ǵ tiêu điều xa vắng. Mới bốn năm,
mưa nắng đă làm cho gạch vôi ẩm mốc xám
đen, tang tóc buồn thăm. Nh́n những bước chưn
người đi lại trên hè phố, tôi như thấy
được nỗi chịu đựng đầy cay
đắng trong cái dáng hấp tấp, vội vàng hay ngập
ngừng, đắn đo. Ôi! Những người dân vô tội
đáng thương của một đất nước
"anh hùng". Trên đường Trưng Vương, tiệm
vàng Tín Thành cao ba từng bị tịch thâu, được
đổi thành Pḥng Y tế Thị Xă. Đă gần xế
chiều vậy mà bịnh nhơn vẫn c̣n kiên nhẫn sắp
hàng, đứng dài ra tới ngoài sân. Nhiều em bé trơ
xương nằm lả người thiêm thiếp trên tay
mẹ. Nhiều cụ già khăn áo bạc màu hom hem, c̣m cơi,
nhẫn nhục sắp hành chờ đợi tới phiên
ḿnh.
Qua đường Hùng
Vương có trường trung học Nguyễn Trăi
thương yêu ngày xưa, tôi hàng ngày hai buổi đi về,
với bao thầy bạn thân thương, bao mộng
mơ một thời mới lớn, bây giờ trở thành
Pḥng Giáo Dục. Hàng dừa xanh mát rủ bóng trong sân, đă
được đốn đi thay vào đó là sân đánh
bóng chuyền, treo cái lưới rách giăng ngang, giành cho
công nhân viên chức nhà nước chơi đùa. Rải rác
có các cán bộ dép râu nón cối, gương mặt lầm
lầm ĺ ĺ. Tôi nghe đau nhói trong tim. Có cái ǵ mất mát tổn
thương quá lớn...Như một thứ t́nh yêu rạn
nứt.
Đất đổi hoa
màu, nhà đổi chủ
Trâu
quên mục tử, ngựa quên chuồng. (Nguyễn
Bính)
Không, cảnh tuy đổi
thay, người đổi thay nhưng ḷng tôi không thay
đổi. Dầu người ta có bắn phá, đập
nát, đốt cháy hết cả cái tỉnh B́nh Dương
nầy nhưng trong tôi vẫn c̣n hoài, c̣n huỹ h́nh ảnh
chợ Phú Cường bằng bê tông cốt sắt đồ
sộ với cái tháp đồng hồ cao sừng sững,
ḍng sông Sài G̣n uốn khúc lặng lờ trôi từ thành
Săng Đá xuống, mang theo trong ḍng vẫn đục từng
dề lục b́nh xanh xanh, trổ bông tim tím, dốc Ông C̣
thoai thoải, im mát hai hành cây sao cao vút, dốc nhà
thương có trường Nam Tỉnh Lỵ Châu Thành, có
nhà thờ bằng đá hoa cương, mỗi khi hè đến,
hàng phượng vĩ trổ hoa đỏ rực, rền
rền tiếng ve.
Trong đầu óc tôi những
ngày tháng ngây thơ đó thần tiên quá. Những h́nh ảnh
như vậy ngàn đời trong tôi không phai nhạt chút
nào. Nó đă thấm vào tim óc, vào từng tế bào từ lâu
lắm. Chắc từ hồi c̣n ở truồng tắm
mưa. chạy lượm xoài, lượm ổi rụng
trong những cơn mưa giông, giành giựt nhau la hét vang
rân từ đầu làng cho tới cuối xóm.
Ôi, B́nh Dương thân yêu của
tôi, chỉ vài ngày nữa thôi, tôi phải bắt buộc
đứt ruột mà xa ĺa. Ở đó tôi có biết bao
nhiêu bạn bè mà gương mặt xanh xao, màu rau nhiều
hơn màu thịt cá. Ở đó tôi có biết bao nhiêu kỷ
niệm thời thơ ấu, bao gắn bó của một
thời mộng mơ, bao tin tưởng của một thời
thành đạt. Làm sao tôi có thể ra đi mà không bịn rịn,
xót xa!
Tôi cũng muốn đi một
ṿng thiệt xa, để nh́n cho hết những con
đường dốc khúc khuỷu quanh co, bùn śnh trơn
trợt của các hầm đất sét ở Ḷ Chén, các con
đường làng kẻo kẹt tiếng đọt tre
đong đưa miệt Xuân Hiệp, những con
đường đất đỏ ngoằn ngoèo im mát
bóng cây ăn trái miệt Giếng Máy, Cầu Ông Đành, những
liếp rau ngát xanh, những bờ nước đầy
rong đuôi chồn trong vắt miệt Phú Văn rồi
ṿng lên các ngọn đồi cao miệt Bà Lụa để
nh́n trở lại ḍng sông Sài G̣n chảy uốn khúc lặng
lờ qua tỉnh lỵ. Tôi muốn gặp hết tất
cả những người quen biết, tất cả bạn
bè thân yêu, để nói câu giả biệt. Nhưng làm sao,
làm sao được!
Tôi không thể nói ǵ hết.
Gần trên bốn năm nay rồi tôi sống im lặng, vật
vờ thu ḿnh như một cái bóng mờ, lặng thinh câm
nín. Một chút động tĩnh cũng không dám. Người
ta hoài nghi, xoi mói, ŕnh ṃ. Tôi không thể nói bất cứ
điều ǵ, dầu chỉ là lời từ giả. Nếu
nói được thoải mái th́ đâu cần phải ra
đi làm ǵ! Đúng rồi, nếu nói được thoải
mái th́ đâu cần phải ra đi!!!
Giờ nầy dưới
ánh nắng thoi thóp của buổi chiều sắp tắt,
tôi nh́n trở lại B́nh Dương của tôi, một lần.
Một lần cho thật rơ, thật kỹ những cảnh
vật, màu sắc, âm thanh, mùi vị... Tôi muốn ôm hết,
thu hết, ghi nhận hết trong tim, trong óc, bởi v́ tất
cả sẽ vĩnh viễn mất đi khi tôi cất
bước lên đường. Mai kia khi tôi đi rồi
th́ tương lai kể như mù mịt, quá khứ trở
thành chiêm bao! B́nh Dương bây giờ, B́nh Dương của
ai?
o o O o o
Chuyến xe đ̣ quốc
doanh Đồng Hiệp sơn đỏ, chuyến cuối
cùng trong ngày đưa vợ chồng tôi rời khỏi tỉnh.
Cái bến xe chật hẹp nằm cạnh trường
trung học Bồ Đề của tỉnh lỵ buồn
hiu, ảm đạm, dưới ánh nắng thoi thóp của
buổi chiều sắp tắt. Màu nắng vàng vọt, lẫn
trong làn gió thoảng cái hơi hướm của biệt
ly. Ḷng tôi chùn xuống, nhấp nhô theo từng căn nhà, từng
miếng vườn, từng khúc quanh của con phố nhỏ.
Tất cả đối với tôi quen thuộc quá. Ngang qua
nhiều xóm làng hai bên đường, nhà nhà c̣n treo đầy
cờ đỏ sao vàng của ngày lễ vừa qua chưa
kịp gỡ. Cũng có thể v́ chưa có lịnh nên
chưa ai dám lấy xuống. Chiều nay đâu có giông băo mà
sao ḷng tôi đầy mây giăng, trời không mưa mà mắt
tôi ươn ướt. Tôi cố nhoài người qua khung
cửa xe để nh́n cho rơ, cho kỹ, nghe từ trong cơi
ḷng câu hát ngày xưa:
"Ra đi là sự đánh liều,
mưa mai nào biết nắng chiều nào hay. "
Bây giờ là nắng buổi
chiều, tôi sắp phải đương đầu với
những cơn mưa giông buổi sáng. Liệu tôi có đủ
nghị lực để chống chỏi với gió táp
mưa sa chăng? Ḷ ḍ tôi mở cái xách tay dưới chỗ
ngồi, để t́m cái khăn nhỏ. Tôi thấy một
hủ dầu cù là lớn, chai Nhị Thiên Đường,
mấy gói thuốc cảm, thuốc đau bụng, cùng một
vĩ thuốc ói mữa... Như một ḍng suối tràn
không chặn lại được, nước mắt tôi
tự nhiên trào ra, ràn rụa. Những giọt nước mắt
chảy dài trên g̣ má, rơi xuống miệng, mặn đắng.
Cũng may tôi có mang cái kiếng đen, nên không ai thấy. Mấy
món tôi vừa thấy được đó là của má tôi,
hồi sáng nầy, chính tay bà đă để vô.
Chuyến đi quá hấp tấp
nên tôi không kịp chuẫn bị ǵ hết. Lúc gần
trưa hai đứa em, Tuyết và chồng nó từ Sài G̣n
về. Hai đứa chun vô nhà bằng cổng sau nhanh
như một luồng gió, hấp tấp báo cho hay là chuyến
vượt biên sắp khởi hành, vợ chồng tôi và các
em c̣n lại ở B́nh Dương, phải xuống Sàig̣n
ngay trong chiều nay để sáng mai đi Bạc Liêu, chuyến
xe sớm nhứt trong ngày. Làm sao kịp, tuy đă biết
là sẽ đi nhưng cứ tưởng là ít nhứt phải
năm, ba tuần nữa. Tự nhiên tay chưn quưnh quáng,
tôi chạy ra nhà trước, đứng nh́n cái bàn viết,
cái tủ rồi ra sau, vô pḥng ngủ, nh́n cái giường,
cái tủ áo, rồi chạy lên lầu, tần ngần
đứng lặng nh́n cái tủ sách. Dọc theo tường,
cạnh bàn thờ tổ tiên giữa nhà, là cái tủ sách bằng
cẩm lai thiệt lớn. Đời tôi đó! Cái tủ
sách hằng nâng niu, ôm ấp, giữ ǵn, bây giờ nó đă
trống trơn. Sách vở bị tịch thu từ những
năm trước. Từng đoàn người lạ mặt,
thô lỗ, túa vô nhà, lục lọi, bươi móc tứ
tung, cuối cùng bưng ra xe từng chồng sách vở, tạp
chí, tranh ảnh đủ loại. Họ đă rứt
đi từng cơi ḷng tôi. Trên mấy ngăn đầy bụi,
bây giờ chỉ c̣n lỏng chỏng năm ba bộ sách chữ
nho xưa, v́ không đọc được nên họ
quăng bỏ lại. Đây đó phất phơ vài màng nhện
mỏng, bụi bám giăng giăng. Đời tôi không thể
thiếu sách vở. Đi đâu th́ đi, làm ǵ th́ làm,
cũng phải có một cuốn kế bên. Tại sao không
lựa một cuốn đem theo làm kỷ niệm? Sách ǵ
cũng được. Người ta vượt biên
đem theo vàng bạc, ngọc ngà, châu báu, tại sao tôi không
đem theo sách?
Quyết định xong,
tôi lướt nh́n một lần chót những tựa sách
thân yêu. Bộ Khang Hi tự điển dầy mo để
cạnh bộ Tứ Thơ b́a đỏ, in h́nh cỗ chiến
xa ngựa kéo, bên trên có che cây lọng tṛn, quyển Dịch
Kinh Bạch Thoại Tân Giải, Thi Kinh Bạch Thoại Chú
Giải b́a đen, giấy mỏng in thạch bản. Mấy
quyển tiểu thuyết Đường Cung Nhị Thập
Triều, Thanh Cung Thập Tam Triều, Tam Quốc Chí, Hồng
Lâu Mộng, Lục Dă Tiên Tung, Liêu Trai Chí Dị, Đường
Thi Tam Bách Thủ nằm đứng ngă nghiêng bên cạnh mấy
cuốn Trung Quốc Văn Học Sử Giản Yếu, Cổ
Văn Quan Chỉ, Cổ Văn B́nh Chú, chữ đồng
nhỏ như con kiến. Tôi rờ rẫm từng cuốn,
từng cuốn, rồi cầm lên bộ Từ Nguyên.
Đó là bộ tự điển được in ở
Thượng Hải Tiêu Cục, tôi đă mua ở Chợ Lớn,
lúc mới bắt đầu học chữ nho với giá rất
mắc, b́a đóng bằng vải dầy, giấy trắng
mịn, mỏng tanh. Nhưng lại để xuống. Hai
quyển thượng và hạ, mỗi quyển trên cả
ngàn trang, nặng quá. Tuy rằng nó quí thiệt, nhưng làm
sao ôm xách đem theo.
Nh́n những quyển nầy,
tôi như thấy được những ngày tháng ở Văn
Khoa Nguyễn Trung Trực, ở Sư Phạm Cộng Hoà.
Những ngày tháng sống đời sinh viên hạnh phúc biết
bao nhiêu! Ở đó tôi có được những bạn
thân, những vị thầy quí mến. Thầy Lê Ngọc
Trụ đơn giản trong nếp sống của
người học giả, lúc nào cũng thoải mái, cặp
kiếng già thường xề xệ trên sóng mũi, cái
mũi lớn sần sùi, đo đỏ như trái cà chua.
Ngày nhập học, tôi đă lầm thầy với ông tùy
phái, đến khi vào lớp mới biết ḿnh đoán
người qua cách ăn mặc là ngu ngốc hết sức.
Từ đó tới sau, lúc nào tôi cũng nhớ hoài câu "
ngọc trụ b́nh thiên ". Thầy Nghiêm Toản mập
người, lùn thấp, dáng đi bệ vệ, miệng
hơi hô, tánh chững chạc, nghiêm nghị mà ôn hoà. Tôi
chưa bao giờ thấy thầy lộ vẻ nóng giận.
Ngồi dưới bàn học nh́n lên, dáng vẻ thầy từ
tốn, thong dong. Thầy Nguyễn Đăng Thục, ốm
cao dong dỏng, ḷng bàn tay đỏ như son, càng giảng
càng hùng hồn lưu loát. Có điều môn Triết Đông
Phương sao mà hơi khó hiểu rồi cuối cùng thành
ra không hiểu! Tôi vốn suốt đời nghe tới môn
nầy là sợ. Cụ nghè Nguyễn Sĩ Giác thiệt ốm,
thiệt nhỏ và thiệt già. Có thể cụ đă trên
chín mươi rồi không chừng, người cụ mỏng
manh, nhẹ hửng. Mắt cụ hầu như gần
loà, mỗi lần đọc chữ phải dùng kiếng
lúp. Cụ cử Thẩm Quỳnh tuy tuổi cũng đă
cao nhưng c̣n tráng kiện, lúc nào quần áo cũng phẳng
phiu. Suốt mấy năm học, tôi chưa bao giờ thấy
cụ ngồi. Có anh bạn phụ đề Việt Ngữ
- cụ Quỳnh không ngồi v́ sợ quần nhăn! Mỗi
lần nói chuyện với cụ là phải dùng chữ
"bẩm" chớ không nên dùng chữ "thưa"
v́ như vậy, mới đúng là con nhà gia giáo. Hỏi ra mới
biết, có một thuở cụ ngồi Tổng Đốc
Hà Đông! Cụ Vũ Huy Chiểu, đậu Tú Tài kép
nhưng tài hoa rất mực, tuy đôi mắt đă lèm nhèm
nhưng mỗi lần cụ viết xong một bài văn
chữ Hán trên bảng đen, tôi nh́n say mê ngây ngất. Những
nét chấm, phết, sổ tung hoành, bay bướm, đẹp
như những lá tre đan vài nhau...
Ôi! tuổi hoa niên thoáng nhanh
như cơn gió. Mới đây ngày nào mà đă gần hai
mươi năm. Tôi cầm lấy hết cuốn nầy
tới cuốn kia, cuối cùng rồi chọn lấy bộ
sách bói của gia đ́nh. Đó là một bộ sách xưa lắm
rồi, củ kỷ, tả tơi. Không biết từ
đời nào, trong nhà đă có bộ sách nầy, khi lớn
lên đă có nó trên bàn viết của ba tôi. Sách gồm có sáu
cuốn mỏng nhỏ, in bằng bản cây khắc tay,
nét chữ rất thô sơ, giấy bạch mỏng tanh, xếp
đôi lại làm một tờ, màu giấy đă ố vàng
ngà ngà, mối mọt ăn lủng nhiều chỗ thành những
đường ngoằn ngoèo, đen đủi. Đó là
quyển " Tăng San Bốc Dịch" của Dă Hạc
Lăo Nhơn. Tôi bèn cầm xuống nhà dưới, kiếm giấy
ni lông bao lại thành nhiều lớp, dùng bàn ủi đốt
cho dính khắn các mối ráp, nếu có bị nước biển
thấm vào, nó cũng không mục được. Bộ
sách đă lâu năm lắm rồi, không thể để
cho nó hư rách thêm. Các quyển khác, có tiền có thể mua
lại được, ở Hồng Kông, Đài Loan thiếu
g! Quyển nầy th́ không. Cái giá trị không phải là ở
nội dung của nó mà là kỷ niệm của gia đ́nh.
Đă bao lần ông tôi, bác tôi, ba tôi, đă cầm lên, lật
ra coi tới coi lui, ngâm nga từng câu phú câu thơ, ... rồi
bây giờ tiếp tục tới tôi nữa. Nếu để
lại, mấy trăm trang giấy bạch chỉ đủ
cho mấy ông ghiền dùng quấn thuốc hút trong vài tuần!
Lúc đó th́ Duyên vừa ở
trường về. Tôi bèn cho hay chuyến đi. Nàng nghe tin
như từ cung trăng rớt xuống, cũng như tôi
ban nảy, nàng không biết lấy ǵ bỏ ǵ. Cuối cùng
rồi hai vợ chồng gom góp chút đỉnh quần áo,
tiền bạc, đồ vật dụng tùy thân cần thiết
hàng ngày. Nhiều nhứt là thuốc men cho đứa con
trai nhỏ, thằng Tâm Bi mới vừa tập đi lẩm
đẩm. Món nào cũng tiếc, muốn mang theo hết.
Mà làm sao được, đi trốn chớ bộ đi
du lịch sao! Khi hai cái giỏ xách tay của tôi và Duyên
đă đầy, sắp được đóng kín th́ má tôi
từ trong pḥng đi ra, cầm một mớ thuốc nhét
vô thêm, miệng dặn ḍ:
- Hai con rán giữ mấy
món thuốc nầy. Đi đường xa, bịnh hoạn
lôi thôi, có nó cũng đỡ, hổng có ba mầy với
tao theo, rủi tụi bây đau yếu, không biết rồi
làm sao xoay trở?
Má tôi như vậy đó,
lúc nào bà cũng coi tôi như c̣n nhỏ xíu, thấy có bổn
phận phải chăm sóc, nuôi nấng, dạy dỗ, ngay
cả khi tôi đă có vợ có con. Nói xong, bà giằng lấy
thằng Bi, ôm chặt nó vào ḷng. Tôi nh́n lên trần nhà, mấy
ngọn đèn ống trắng h́nh như không c̣n song song mà
chúng chập choạng đâm xiêng vào nhau. Ba tôi đứng cạnh
bên hút thuốc liên miên. Ông bất động như pho
tượng, im ĺm không nói năng. Có lẽ h́nh ảnh tôi bồng
con đi vượt biên trưa nay, giống y như h́nh ảnh
bốn mươi năm về trước, từ bờ
sông Dương Đông của hải đảo Phú Quốc
xa xôi, ông đă ẳm tôi theo ghe bầu mà về đất
liền để chạy giặc Nhựt Bổn. Tôi nghe
đau nhói trong ḷng. Căn nhà rộng rinh, từ lâu rồi
nó đă trống trơn. Cũng may là c̣n có anh em tụi tôi,
quây quần ấm áp. Bây giờ xúm rủ nhau đi như
đàn chim tứ tán, xao xác bay ĺa tổ. Cái tổ rộng
thênh thang chỉ c̣n có hai con chim già ngơ ngác, bơ vơ. Rồi
đây ai lo cơm nước, ai đỡ đần việc
nhà việc cửa, bịnh hoạn ai lo chăm sóc thuốc
thang?
Ba má tôi đó, hai ông bà già da
dẻ nhăn nheo như vỏ cây sao, cây dầu, lưng
c̣ng gối mơi, sống đă trên bảy mươi năm
trong cái cuộc đời đau khổ đầy nước
mắt nầy. Bây giờ một lần nữa, chứng
kiến bầy con cháu đứt ruột ra đi để
đến một phương trời xa xôi nào đó, mà
tương lai chưa biết thế nào?
Tôi bất chợt ôm lầy
hai người mà khóc ngất như một đứa con
nít lên ba. Những ḍng nước mắt trào ra như suối,
không ḱm lại được. Ba tôi nói trong nỗ nghẹn
ngào:
- Để tụi bây
đi, tao đứt từng khúc ruột, nhưng biết
làm sao bây giờ " - người ta không để cho gia
đ́nh ḿnh sống yên.
Ôi " T́nh cha mẹ
thương con để đâu cho hết. Bây giờ ngồi
trên xe, tôi lục lọi trong xách tay để kiếm cái
khăn, bất ngờ đụng phải mấy món thuốc
mà má tôi đă nhét theo. Bỗng dưng tôi thấy choáng váng
quay cuồng, đầu óc lộn xộn, lung tung, rối
beng như nùi chỉ. Những h́nh ảnh chập choạng
ráp nối. Thấp thoáng đâu đây, tôi thấy cái nhà cẩn
gạch sứ trắng số 16 đường Nguyễn
Thái Học, thị xă Phú Cường có ba tôi đeo kiếng
già, áo sơ mi trắng ngồi bán thuốc, má tôi áo bà ba trắng,
quần lănh đen,xách giỏ mây đi chợ. Lối xóm có
chú tư Vũ Văn Lư, ốm ốm cao cao ngồi trên
chiếc ghế tréo bằng da để đóng giày, cô hai
Hiệp Thành mập phục phịch mở tiệm cầm
đồ, cô hai Hiệu trắng trẻo, dịu nhiễu
bên tiệm thuốc tây, ông Mỹ Kiều có tật chưn
đứng ẹo ḿnh một bên, uốn tóc cho khách, bác Hai
Đức Hoà mập mạp, bán sắt bán đinh. Trên dốc
nhà thương, miệt Bưng Cải, có các bạn tôi, anh
Hưng, anh Thạnh, anh Phúc, anh On, tất cả quây quần
thân ái, kể chuyện buồn vui đời dạy học
và những đứa học tṛ thân yêu nữa, chúng đang
học tập nô đùa ở sân trường.
Tôi thấy hết, rất rơ những kỷ niệm của
trên ba mươi mấy năm sống yên vui ở cái vùng
đất trái ngọt cây lành nầy. Tôi cũng nh́n thấy
những chiếc xe thổ mộ già nua chất đầy
giống gánh, lọc cọc, lọc cọc chạy trên những
đường đất đỏ ngoằn ngoèo
Tương B́nh, Bến Thế, Mỹ Hảo, hai bên là ruộng
rẩy xanh mát. Những người đàn bà lam lủ tần
tảo xuôi ngược, những người dân quê nghèo khổ,
dang nắng dầm sương, vun xới những luống
rau xanh...
Cuộc đời tôi
đó. Nó gắn chặt vào những h́nh ảnh thiệt
đơn sơ, thiệt tầm thường nhưng
đầy đủ quá, thân thương quá. Tôi c̣n ước
muốn ǵ hơn? Vậy mà đến gần nửa cuộc
đời, bắt buộc phải đành đoạn ra
đi, để đến hay không đến, một góc
biển chân trời xa lạ nào đó, không cha mẹ, không
người thân, không bạn bè, rồi sẽ sống chung
với những người không cùng màu da, không cùng tiếng
nói... Tôi không thể tưởng tượng rồi sẽ
ra sao nữa!
Duyên chắc cũng mang tâm
trạng rối bời, nàng cũng ủ rủ không kém, từ
khi cất bước ra khỏi nhà tới giờ không nghe
nói năng. Xe đă qua khỏi quận Lái Thiêu, ngang qua ḷ
đường Vĩnh Phú, những thửa ruộng mía
ngút ngàn, xanh ngăn ngắt, mùi nước chè ngào ngạt
thoảng vào ḷng xe, một tấm bảng to đựng bên
đường để làm ranh giới B́nh Dương với
Gia Định. Bốn chữ sơn xanh đậm nét
" Hẹn ngày tái ngộ " đập mạnh vào mắt,
khiến tôi bàng hoàng. Duyên nghiêng qua tai, nói thiệt nhỏ:
- Vĩnh biệt B́nh
Dương phải không anh?
B́nh Dương bây giờ
như một cố nhơn, sắp rời xa trong mắt
nhưng không phải trong ḷng, làm sao có thể dễ dàng phai
lạt được, dầu ở chốn ngh́n trùng vời
vợi.
Chờ trông quê cũ nao nao
Mặc
cho tim lụn, dầu hao cũng chờ
Tôi gượng gạo trả
lời, giọng yếu hẵn đi:
- Không phải đâu em, anh
hy vọng chỉ là tạm biệt.
Thầy
Vơ Tấn Phước