Bên Kia Núi
Thầy
Võ Tấn Phước
Chú Tư thợ
giày cởi trần, mặc cái quần xà lỏn đen,
đứng ngoài trời nắng chang chang, sửa lại
cái hàng rào sau hè. Những cây nào mục
hư, xiêu vẹo được chú thay thế, sắp xếp
lại cho ngay ngắn, chắc chắn. Tiếng
búa đóng giữa trưa nghe vọng tới cuối xóm.
Hưng đứng bên kia hàng rào, hỏi
vói sang:
-Bửa nay không ngủ
trưa sao chú Tư?
Chú Tư ngừng tay búa, trả lời:
-Sửa sang lại cái hàng
rào để nuôi vài ba con gà cho vui nhà vui cửa. Đất nước độc lập thanh bình
rồi mình phải biết tự túc tự cường.
Đâu có thể ăn bám đế quốc,
tư bản hoài. Tao hổng ưa cái lối phồn vinh giả
tạo! Thời đại cách mạng phải
có cuộc sống cách mạng chớ, phải không Hưng?
Hưng cười:
-Chú Tư thuộc bài kỹ
quá. Vừa mới được học tập
có vài tháng, đem áp dụng vô thực tế liền. Mà bộ chú muốn đổi nghề sao? Nghề thợ giày đâu phải là tư sản
mại bản, tư sản dân tộc gì mà lo.
-Tao mà tư sản cái khỉ
khô gì! Lúc nầy đâu có ai mang giày, mang dép nữa
nên ế lắm. Cả ngày ngồi ngáp
lên ngáp xuống, thiếu điều trẹo bản họng.
Thỉnh thoảng có một hai khách hàng tới
sửa vài cái quay dép râu đứt. Đâu
có bao nhiêu tiền. Ở không hoài đâm buồn, nuôi bậy
đàn gà, buổi sáng nghe gáy ó o, buổi chiều chờ
nghe cục tác cũng đủ vui. Nghe chú
Tư nói tới đó, Hưng bật cười nhớ tới
thím Tư. Chú nói chuyện nghe được như vậy
mà lần nào nhắc tới chú là thím chê tàn tệ.
Như hôm trước qua chơi bên nhà, thím vừa têm thêm miếng
trầu, vừa nói với mấy đứa em gái Hưng:
-Nữa sau lấy chồng
tụi bây đừng có lấy mấy cha thợ giày. Tao lỡ gặp chú Tư mầy, kể như cuộc
đời còn có phân nửa.
Con Út đứng kế bên
nghe nói bật cười:
-Lấy chồng như chú
Tư, có giày dép mang, sướng thấy mồ, thím còn
đòi hỏi gì nữa. Chú Tư lại cao ráo, đẹp
trai...
Thím Tư ngoe ngoảy, bỏ
míệng trầu vừa têm vào miệng:
-Đàn ông gì mà suốt ngày
ngồi lúc thúc ở nhà, ngồi đóng giày cồm cộp.
Từ sáng mơi tới chiều tối, đâu có nói
năng gì với ai, thành ra không mở miệng thì thôi, mà mỗi
lần mở miệng ra là nghe không lọt lỗ tai. Đẹp trai mà vô duyên thì chỉ còn có một
phần tư, tao nói còn phân nửa là tự an
ủi đó!
Thím Tư đẹp người,
ăn nói lanh lợi, hoạt bát vui vẻ.
Mỗi lần thím qua nhà chơi là anh em
Hưng quây quần xung quanh để nghe chuyện. Ngược lại với thím là chú Tư, ít
ăn ít nói. Nhiều khi Hưng không hiểu tại sao
hai người lại thành vợ chồng được.
Chú thiệt thà, chất phác, ăn chắc
mặc dầy, tuy vóc dáng bên ngoài chú coi cũng được
lắm. Mấy ngày tết nhứt, lễ lạc,
chú Tư ăn mặc chỉnh tề vào thì y như các ông lớn,
hào hoa, phong nhã đúng mực. Cứ nhìn
hình chú chụp thì biết. Trong tiệm
giày đằng trước, đàng sau, ở giữa, chỗ
nào cũng treo đầy ảnh. Cạnh
tủ kiếng là tấm ảnh chụp hai vợ chồng
hồi mới cưới. Chú mặc áo dài khăn
đóng, mặt bơ bơ đứng cạnh
thím. Thím ngồi thong dong, chơn mang hài thêu, cổ
đeo kiềng vàng, bới tóc, dáng hơi ngượng nghịu,
thẹn thò. Giữa phòng là hình hai vợ
chồng chụp ở đền Đế Thiên Đế
Thích lúc đi chơi ở Cao Miên. Chú vòng tay phải ôm lấy thím. Thím tay
che dù, vai đeo bóp đầm, phía sau có tượng Phật
lớn với nụ cười hiền hoà, thanh thản. Những tấm còn lại là hình của riêng chú.
Tấm nào coi cũng đẹp. Lần nào qua nhà chú, Hưng cũng ngắm các tấm
hình nầy hoài nên đâm ra quen thuộc. Thiệt
là cặp vợ chồng xứng đôi vừa lứa.
Mà ở đời, có mấy ai bằng lòng với
cái mình hiện có đâu. Thím Tư
cũng vậy. Hễ chú Tư làm một
việc gì, nói một câu nào thì thím cũng kiếm cách để
chê. Chê không thương tiếc, chê không chút
nương tay.
Có lần tình cờ qua nhà,
Hưng nghe thím cằn nhằn:
-Ông nói chuyện gì mà vô duyên
quá vậy? Con người ta thi rớt, đáng lẽ không
phải an ủi, khuyên lơn chớ!
Chú Tư trả lời, giọng
xuội lơ:
-Thì tôi an
ủi, chớ có nói gì đâu! Bà làm cái gì mà đong đỏng!
-An ủi
kiểu ông còn hơn chửi người ta. Con Hai thi rớt,
nó buồn nó khóc, ông lại nói như vậy nghe sao được.
-Đâu bà chỉ
coi tôi nói bậy ở cái chỗ nào? Tôi nói với nó là
tại con học dở nên thi rớt, đừng buồn.
Lần sau siêng siêng thêm một chút nữa là
đậu liền.
-Trời đất,
cũng như hôm trước thằng Tám cưới vợ,
hai vợ chồng nó dắt nhau đến thăm, đáng
lẽ ông phải khen tụi nó đẹp đôi vừa lứa,
trai tài gái sắc, loan phụng hoà minh.
-Bà làm tài khôn không hà! Tôi khen tụi nó bà không nghe sao?
-Ông khen vậy đó hả,
vợ nó có nước da bánh mật, ông ngắm tới ngắm
lui rồi nói -bộ vợ mầy mới đi chơi Cấp
về hả, sao mặt mày tay chưn
đen thui vậy?
Nói tới đây, thím phân
bua với Hưng:
-Mầy nghĩ coi, ổng
vô duyên quá trời. Nói chuyện như dùi đục
chấm mắm nêm. Phải chi hồi đó biết vậy,
tao không ưng cho ổng ở giá tới già!
Chú Tư chậm rãi, từ
từ trả lời:
-Má mầy mà gặp
được tao như đĩa đeo chưn
hạc. Lấy được chồng giỏi
giắn đâu phải dễ. Bà kiếm đỏ con
mắt coi cả cái xứ nầy cũng không có ai đóng
giày chắc như tôi!
Câu trả lời
rất có lý. Giày của chú Tư đóng,
đi mười năm cũng chưa mòn. Da dầy, nhợ to, đế cao cả tấc,
giống như giày nhà binh. Năm nào
cũng vậy, anh em Hưng cứ gần Tết đều
qua bên chú Tư đóng giày mới. Ngày mồng
một, mang đi biểu diễn vòng chợ. Đứa
nào đứa nấy bị phồng chưn,
khệnh khạng như ông táo mang hia. Thấy các bạn
khác có giày đẹp đẽ, Hưng cằn nhằn với
ba đòi lần sau phải mua giày mới ở Sài Gòn, chớ
không chịu đóng giày chú Tư nữa, ba Hưng không chịu:
-Tụi bây không biết chớ
chú Tư làm giày chắc chắn lắm, đi lâu hư. Giày Sàigòn được cái mả nên ngoài, bên trong
lót cạc -tông bở rệu, đi vài ngày là đứt chỉ
hết, vụt bỏ.
Nhìn đôi giày của chú
Tư đóng thì biết ngay con người chú. Chắc chắn, kỹ lưỡng nhưng thô kệch,
quê mùa. Chú Tư sống hồn nhiên,
nghĩ sao nói vậy, không trau chuốt, không văn hoa,
đôi khi vụng về làm mích lòng người nghe. Lối xóm đã quen tánh nên cũng không ai quở
trách, đôi co gì.
Nhưng ở đời,
có cái gì vĩnh cửu đâu! Tất cả
đều thay đổi hết. Cách mạng
về, mọi sự còn thay đổi lẹ hơn nữa.
Ông xuống làm thằng. Thằng
lên làm ông. Chú Tư cũng phải tuân theo
cái định luật thay đổi đó. Ngày
trước chú Tư làm thợ đóng giày da. Bây giờ chú Tư trở thành thợ thay dép râu
đứt kiêm chuyên viên nuôi gà. Lợi dụng những
ngày giờ rảnh rỗi dư thừa, chú đã lượm
lặt, tom góp những mảnh ván hư, cây gỗ vụn
vá víu, o bế, chắp nối lại để làm một
cái chuồng cao cẳng khá lớn để nuôi gà. Cái mái
cao và nhọn vút thẳng lên được làm bằng hai tấm
tôn cũ với những dấu đinh đóng lủng lỗ
chỗ, ri sét vàng vàng, mặt trước có cái cửa làm bằng
mành mành sắt, một cái thang nhỏ bằng cây dầu dựng
từ mặt đất lên tới cửa chuồng. Nhìn
chuồng gà mới làm xong đặt dưới gốc cây
nhãn to, Hưng thấy nó giống như cái nhà rông của
đồng bào Thượng thu nhỏ lại.
Hưng nhìn tới nhìn lui, thấy cửa chuồng không có
khóa, bèn hỏi chú Tư:
-Lúc nầy coi bộ trộm
cướp hơi nhiều, gà heo lại có giá, chú liệu
coi gắn thêm một ổ khóa ở cánh cửa chuồng,
cho chắc ăn!
-Có một cái lớn ngoài
hàng rào rồi. Vả lại, xóm nầy có chút xíu mà công an cả chục người trông chừng.
Mình ở giữa chợ, sát bên Phường thì còn sợ
gì trộm cắp!
Đứng
ngoài trời đã hơi lâu, nắng buổi trưa nóng
như đổ lửa. Hưng lấy tay
che đầu, mắt nheo nheo, vừa đi vô nhà vừa nói:
-Biết đâu chừng chú
Tư, cẩn thận vẫn tốt hơn!
o o O o o
Rồi từ hôm cái hàng rào
được sửa sang cho đến nay, đàn gà của
chú Tư ngày càng đông đúc. Con nào con nấy lớn
như thổi. Mỗi sáng ra sân, chú mở chuồng gà,
đứng nhìn quang cảnh chúng giành ăn, dáng khoẻ mạnh
sởn sơ mà sướng trong bụng. Lần lượt
từng con, từng con nhảy xuống thang, tung
tăng đi kiếm mồi. Con gà trống lớn bước
những bước hiên ngang ra cửa chuồng trước
tiên, hai cái chưn cao nghệu, vững
vàng như hai cây cột cứng chắc, phủ đầy
vảy vàng lớn như hột bắp. Những
cái lông đuôi đen bóng, óng ánh cong vòng. Đôi mắt
tròn vo, cái tròng vàng hoe, ươn uớt long
lanh, thường chớp nhay nháy. Nó đứng
giũa sân cỏ, xoè cánh, giương cao cái cổ mượt
lông, cất tiếng gáy ồ ồ, náo động cả một
vùng. Xung quanh là một bầy gà mái với đàn con
ríu rít. Cái giống gà mái lông màu vàng sẩm lẫn những vết
nâu đen, xam xám nhìn thấy lem luốt dơ dáy như dính
đầy bùn đất, nhưng lại là loại mập
mạp đầy thịt.
Mỗi con chọn riêng một
gốc cây hay một hốc đá, dùng móng cứng như sắt
để bới đất và cúi mỏ mổ lia lịa.
Con gà mái to vừa mổ vừa bới, gặp được
trùn dế, miệng kêu cục cục gọi bầy con nhỏ
đến ăn chung. Những
lúc trời sắp mưa hay cơn giông lớn, nó lựa một
nơi kín đáo xù lông xòe cánh để che chở cho đàn
con nhỏ. Những con gà con, nhỏ cở bằng nắm
tay, lông vàng lợt, mỏ nhỏ như
mỏ chim sẻ chạy xung quanh mẹ, kêu ríu rít. Con thì chun vô bụng vô cánh, con thì nhảy lên
lưng, miệng kêu chim chíp, vang rân cả cái sân nhỏ. Cái sân từ lâu cỏ dại mọc um tùm, chỉ
trên dưới vài ba tuần là bị đàn gà mổ trụi
lủi, không còn một cọng cỏ xanh. Rồi lần lượt tới các châu kiểng.
Hoa lá gì cũng tả tơi, tan nát. Giữa cây cỏ và gà, chú Tư đành phải hy
sinh một vậy. Ối, hoa kiểng mà
làm gì khi nồi gạo sắp hết. Ở cái thời
nầy, phải lo cái ăn trước
đã. Mỗi lần nhìn đàn gà, lòng chú
Tư ấm áp. Vì đàn gà là nguồn sống
phụ của gia đình, đồng thời cũng là niềm
vui. Nếu sống mà không có việc gì
làm cho vui thì cuộc đời đáng buồn thiệt.
Cái thế gới nho nhỏ của chú bây giờ
là cái sân gà quen thuộc. Chú nhớ từng con với từng
dấu vết, màu sắc đặc biệt. Con gà mái đẻ
màu lông xám, đen nhiều hơn vàng, đã hết bóng
mượt. Đôi mắt thường
ngơ ngác, mệt mỏi. Cái mình to lớn
bề ngang nên đi đứng có vẻ nặng nề
như một người đàn bà lớn tuổi.
Tám con gà mái còn lại ở lứa tuổi đang tơ,
con màu xam xám, con màu vàng vàng, với các đám lông đen trắng
pha trộn không đều. Nhìn những
cặp mất tròn vo có viền vàng, chú
phân biệt được cái nét lanh lợi hay khờ khạo
của con nầy, con kia. Cũng như ông trời
sanh loài người, trong cái đám nhân loại đông lúc
nhúc ấy, đâu có ai giống hệch ai như hai giọt
nước.
Thói đời
bây giờ không còn biết tin ai. Người ta
được khuyến khích tố nhau vì những chuyện
không đâu, nói năng nhiều, giao thiệp rộng càng gây
thêm tai vạ. Vui với đàn gà không sợ
bị tố bậy mà còn có ăn ngon,
lâu lâu bán ít gà lại có tiền xây xài.
Nhưng hình như ông trời
trên cao kia, không thương chú Tư chút
nào. Cái ước vọng thật nhỏ nhoi và gần gũi của chú là nuôi đàn gà mái đẻ
cũng không thể thực hiện trọn vẹn
được. Vào một đêm tối trời,
hàng rào nhà chú Tư bị phá một lỗ hổng lớn bằng
cái thúng. Lúc đó cơn mưa vừa dứt hột. Đương ngủ mơ màng, bỗng nghe có tiếng
gà xao xác sau vườn, chú vụt tỉnh ngủ, xách
đèn chạy ra coi. Cái cửa chuồng
mở toang hoác. Con gà mái lớn đang ấp cùng bầy
gà mái tơ, mất tiêu. Các con còn lại, dáng xơ xác, nhốn
nháo. Có tiếng chân chạy ở cuối hẻm,
xa dần rồi lặng im. Vào khuya, trời
trở nên tối đen. Bầu trời
còn đầy nước nên không thấy một vì sao.
Đèn đường không còn một bóng, lảm sao soi sáng
được màn đêm. Thủ phạm biệt
tăm. Chú Tư tay cầm đèn,
đứng ngó dọc theo con đường mờ mờ,
xa hun hút, mặt bơ bơ. Phố xá im lìm
câm nín như không thèm biết đến nổi bực tức
buồn giận của chú chút nào. Chú nhìn
sững cái chuồng, bụng tức ấm ách. Một luồng gió lạnh thổi tạt ngang,
cánh cửa đong đưa nhè nhẹ, tiếng ken két nghe mà
bực mình. Chú đưa tay đóng
mạnh. Cánh cửa bị xô, đập vô
khung cây nghe một tiếng ầm vang trong đêm trường
tỉnh mịch. Rồi tất cả trở
về với cái im lặng mênh mông.
Sáng hôm sau chú đứng
nhìn bao quát cả cái sân đầy dấu chưn
bùn sình nhòe nhoẹt. Trên đường,
đây đó còn rơi rớt lại vài cái lông gà xam xám.
Chuồng gà còn trơ lại le que vài con gà trống
già với đàn gà con mới mặc áo lá. Con gà trống
buổi sáng vẫn hùng dũng oai nghi đứng vỗ cánh
bành bạch, vươn cái cổ cao nghệu, cất tiếng
gáy ó o tựa ngày nào. Như chưa hề biết cái tang
thương, đổ nát, mất mát của đêm qua.
Nhưng nghe trong âm thanh đó có cái gì cô đơn,
xa vắng quá. Như cõi lòng của chủ
nhơn nó.
Ôi! Cái cảnh sinh ly tử
biệt nào mà chẳng thê thảm, xót xa!
o o O o o
Hưng đưa tay kéo cái
ghế đẩu mặt bằng da, qua ngồi sát bên cạnh
bàn sửa giày, coi chú Tư vá lại chiếc dép rách, miệng
hỏi thăm về vụ chú bắt được thằng
ăn trộm gà.
-Chú Tư ơi, thằng Cải
bị bắt giải về đồn công an rồi mà sao
hồi nảy chính mắt tôi thấy nó đi lò lò ngoài chợ,
dáng điệu tỉnh bơ, sao kỳ
cục vậy?
-Chú Tư ngừng tay búa, tay sửa lại gọng kiếng già,
ngửng mặt nhìn Hưng định nói thì thím Tư từ
bên trong bước ra, trả lời thay:
-Thiệt tình là tao cũng
không biết ra sao nữa. Nó ăn trộm
gà của tao hai lần, bị bắt quả tang, vậy
mà…
Chú tiếp lời vợ, mặt
còn bực bội:
-Chú Hưng nghĩ coi, gia
tài tao có cái chuồng gà, bao nhiêu công phu cực khổ đổ
dồn vô đó. Vốn liếng thì cũng
không bao nhiêu nhưng tiếc cái công mua tấm cám, xắc rau
muống, đào trùn cả mấy tháng nay. Nghĩ tới nghĩ lui mà tức mình. Tánh tao lại không ưa lên quan xuống làng, dạ
thưa phiền phức, lôi thôi quá. Nhưng
không đi thưa thì tức không chịu được.
Rốt cuộc thì tao cũng phải rán lên đồn mà
trình báo vụ mất mát đó. Tao đã biết
là của đã mất rồi thì dễ gì mà lấy lại
được nhưng ít ra mình cũng báo động cho
người ta biết để phòng ngừa lần sau.
Cái thằng trưởng đồn nghe tao kể
chuyện mất gà, nó làm bộ ngạc nhiên lắm.
Nó nói ở cái xã nầy, nó trách nhiệm an
ninh, sao lại có thành phần trộm cắp, phá hoại
như vậy được. Công an nhơn
dân ngày đêm canh gác lo bảo vệ tài sản tánh mạng
của nhơn dân. Nó hứa sẽ cho người theo dõi, điều tra chắc chắn sẽ
bắt được thủ phạm. Nó hỏi tỉ mỉ
các chi tiết, ghi chép lia lịa, xong rồi bèn phân trần:
-Chú Tư đừng buồn,
tại đêm qua công an xã có nhiệm vụ
quan trọng đặc biệt do cấp trên chỉ thị
phải lo nên không thể trông chừng bọn trộm cắp
được. Nhưng kể từ đêm nay, chú cứ
yên tâm ngủ ngon, anh em sẽ quyết tâm bắt cho
được tên ăn trộm gà. Ở xóm nầy, không thể có kẻ lộng hành
như vậy. Công an phải bảo vệ tài sản
cho nhơn dân để họ yên tâm mà lao
động sản xuất tốt…
Cái luận điệu ba xạo
đó, tao đã nhiều lần nghe qua, chán quá bèn bước
ra khỏi đồn công an không thèm chào ai hết. Vậy mà
nó còn rán nói theo:
-Chú Tư đừng có lo,
công an đã điều tra thì phải biết, con kiến
cũngkhông lọt!
-Chú tin mấy lời của
anh Tám nói không?
-Nó nói vậy, thì tao cũng
nghe vậy, chớ làm sao tin được mậy. Ông Thiệu nói một câu để đời, chắc
tới già tao cũng không quên. Nhưng bây
giờ, mình mất gà, không thưa với tụi bò vàng
đó, thì thưa ai?
Rồi chú xụ mặt xuống,
nói tiếp:
-Con kiến thì không lọt,
chớ con gà, con bò thì lọt tuốt luốt. Tao đành nuốt
giận trở về, quyết không ngủ rình bắt cho
được thằng ăn trộm mới
nghe. Tao với bả rình liên tiếp cà tuần
lễ. Cho đến ngày hôm qua thì bắt
được cái thằng mắc dịch đó. Vốn
ăn quen nên mắc bẩy, nửa
đêm nó lại lò mò đến, tính hốt cho sạch chuồng
gà mới thôi, nào ngờ nó bẻ khóa lụp cụp, lac cạc
tao nghe được tri hô lên. Nhờ lối
xóm nghe động, xúm ra vây bắt tại trận. Tưởng ai lạ, nhè đâu thằng Cải,
cái thằng vô công rồi nghề, phá xóm phá làng, nổi danh ở
cái xóm nầy, không ai chịu nổi. Nó bị
bắt giải về đồn ngay trong đêm ấy.
Thằng công an vừa dẫn nó đi, vừa
nói như phân bua với lối xóm:
-Cho mầy đi học tập
rục xương, cách mạng không tha thứ thành phần
bất hảo, trộm cắp, đĩ điếm,
ăn hại xã hội. Dưới thời ngụy,
tụi mầy được dung dưỡng chớ cách mạng
thì đừng hòng.
Thuật đến đây
chú Tư bỉu môi:
-Cái thứ đồ nói
dóc. Chổng cẳng ngủ cho đả,
người ta báo mấy lần rồi cũng như không.
Phải tao không rình bắt thằng Cải thì
biết tới chừng nào tụi nó mới bắt
được.
Thím tiếp lời chú, giọng
bực bội:
-Mà bắt rồi cũng
như không. Mầy nghĩ coi, mình bắt được thằng
ăn trộm gà, giao cho nó giam. Nhè đâu nó thả ra đi ngờ ngờ. Chú Tư mầy lên gặp anh Tám trưởng
đồn, hỏi tại sao có chuyện lạ kỳ vậy?
Ảnh nói là nhà nước không có gạo
để nuôi mấy người tội phạm. Mỗi
anh công an đều có khẩu phần nhứt
định, không thể lấy bớt ra cho phạm
nhơn ăn. Nếu tao muốn giam giữ thằng
Cải bao nhiêu ngày, thì phải tính ra số gạo mà nộp
cho đủ. Tính như vậy thì thiệt
thòi cho tao quá, đã mất gà rồi bây giờ lại phải
mất thêm gạo nữa, lại phải đi lên đi xuống
thưa gởi, tao đâu có hưỡn. Thôi
đành để cho họ thả nó ra, chớ nhốt mà bỏ
đói người ta, làm sao được. Ở cái xứ nầy, bây giờ nhiều chuyện
kỳ cục quá, tao hết biết.
Nói xong, thím thở dài ngao
ngán:
-Luật lệ của cách
mạng là như vậy đó, mầy hiểu nổi không?
Chú Tư xen vô, nói một
hơi tỉnh bơ:
-Có gì mà má mầy không hiểu,
mình bắt được thằng ăn trộm mà lại
giao cho thằng ăn cướp nhốt, nó thả ra là phải
rồi, còn thắc mắc gì nữa. Hồi xưa ra sao thì
bây giờ còn hơn nữa….
Chú giải nghĩa thêm:
-Hồi xưa là cái thời
còn quan huyện, quan phủ, bây giờ là cái thời của
quan cán bộ, anh Tám, anh Chín, anh Mười… Má mầy không
nhớ ông bà mình thường nói sao:
Con
ơi, nhớ lấy câu nầy,
Cướp đêm là giặc,
cướp ngày là quan.
Thím Tư tay
xỉa trầu, tay chống nạnh, miệng bô bô nói với
Hưng:
-Trời đất! Mầy
thấy ổng lúc nầy nói năng có duyên hết sức
chưa! Từ ngày cách mạng về, tao chịu
ổng quá, nói câu nào nghe được câu đó, không
như lúc trước. Thiệt tình, thay đổi lẹ
ghê! Rồi thím chợt giựt mình, hạ thấp giọng:
-Ý, tao quên phứt, nói chuyện
lớn tiếng quá. Rủi có người
ngoài nghe được, nguy hiểm. Ăn
trộm, ăn cướp thì tụi nó tha, chớ còn ăn
nói bậy bạ thì coi chừng, có ngày đi học tập
mục xương!
Thầy
Võ Tấn Phước