Tây Tạng Huyền Bí
Nguyễn Hữu Kiệt dịch
Thời Thơ Ấu
A ha! Aha! Đă lên
tới bốn tuổi rồi mà không ngồi vững trên
lưng ngựa! Mi sẽ không bao giờ trở nên một
người hùng! Rồi đây cha mi sẽ nói sao?
Vừa nói xong, ông Tzu
thẳng tay quất vào mông con ngựa một ngọn roi da,
đầu ngọn roi cũng đét luôn cả vào
người kỵ mă bất đắc dĩ, và nhổ
luôn một băi nước bọt xuống đất
một cách khinh bỉ.
Những nóc nhọn và mái
bầu bịt vàng của điện potala chói sáng
dưới ánh mặt trời nóng gắt. Gần bên chúng
tôi, hồ sen trong vắt của ngôi Đền Rắn
dợn sóng lăn tăn. Đằng xa, trên
đường ṃn gồ ghề đá sạn, những
khách lữ hành vừa rời khỏi thủ đô Lhassa
cố gắng thúc giục những con Yak đi mau hơn,
với những tiếng kêu inh ỏi. Từ những
đồng cỏ xanh ở kế cận, vọng
đến tai tôi những tiếng kèn khổng lồ do những
sư săi nhạc công thực tập thổi kèn ở
một nơi vắng vẻ.
Nhưng tôi không có thời
giờ để ngắm nh́n những cảnh vật
vẫn từng diễn ra hằng ngày mà tôi đă quen
mắt nhàm tai. Công việc của tôi trong hiện
tại ôi, một công việc khó nhọc thay là ngồi
vững trên lưng con lừa nhỏ bất kham của tôi. Nhưng con lừa
Nakkim lại có những ư nghĩ khác. Nó muốn tách khỏi
người kỵ mă tí hon của nó, để có tự do ăn cỏ, nằm
lăn trên đất và chơi một ḿnh.
Ông Tzu là một ông
thầy rất khó chịu. Suốt đời, ông luôn luôn nghiêm
khắc và khó tánh; trong lúc hiện tại, trong vai tṛ vơ
sư quyền thuật và huấn luyện viên kỵ mă cho
một đứa trẻ lên bốn tuổi, ông
thường tỏ ra bất măn và nổi nóng hơn là kiên
nhẫn. Xuất xứ
từ vùng Kham, ở miền Đông xứ Tây Tạng, ông
được chọn lựa cùng với vài người
khác nhờ bởi vóc vạc cao lớn và lực
lưỡng. Nhiều người có tác cao hơn hai
thước và được tuyển dụng làm những
sư săi cảnh binh trong các tu viện. Họ mặc áo
dài và độn vai rất cao để cho có vẻ to
lớn, lấy lọ boi mặt để cho có vẻ hung
tợn, và sử dụng những cây gậy to và dài
để trừng phạt những kẻ bất hảo.
Như vậy ông Tzu là
một vị sư săi cảnh binh, kiêm chức vơ sư
dạy quyền thuật và môn cưỡi ngựa cho
một thiếu nhi con nhà quư tộc!
Không thể đi
đứng được lâu v́ bị tật ở chân,
ông ta chỉ di chuyển bằng cách đi ngựa. Năm 1904, quân Anh
dưới quyền chỉ huy của đại tá
Younghusband, đă xâm lăng xứ Tây Tạng và gây nên nhiều
sự tàn phá, thiệt hại. Chắc hẳn là họ
nghĩ rằng phương tiện tốt nhất
để thu phục được t́nh thân hữu của Tây
Tạng là bắn phá nhà cửa, làng mạc và giết
hại dân tộc của xứ ấy. Trong cuộc
pḥng thủ diệt địch, ông Tzu đă bị
đạn bắn vẹt mất một phần
xương háng bên trái khi ông chiến đấu ngoài
mặt trận.
Cha tôi là một
trong những viên chức có quyền thề nhất trong
Chánh phủ. Người thuộc ḍng quư tộc và
có thế lực rất mạnh trong việc quốc chính. Cha tôi cao
gần tới hai thước, và có một sức mạnh
phi thường. Hồi c̣n thanh người đă có
lần ra sức giở hỏng một con lừa khỏa
mặt đất; người là một trong những
người Tây Tạng có thể chiến thắng
những thổ dân vùng Kham trong những cuộc so tài
về môn đô vật.
Xứ Tây Tạng
đă trải qua một thời kỳ loạn ly. Năm 1904 khi quân
đội Anh xâm lăng lănh thổ Tây Tạng, vị
Quốc vương xứ này là đức Đạt Lai
Lạt Ma sang tị nạn bên xứ Mông Cổ, giao
quyền nhiếp chính lại cho cha tôi và cùng với
những viên chức trong nội các trong khi ngài vắng
mặt. Năm 1909, ngài trở về
nước sau một thời gian sống tại Bắc
Kinh. Năm 1910, quân
Trung Hoa, được khích lệ tinh thần bởi
cuộc xâm lăng thành công trước đây của quân
đội Anh, bèn đem quân tấn công thủ đô Lhassa.
Một lần nữa đức Đạt Lai Lạt Ma
lại lưu vong tị nạn nhưng lần này ngài sang
Ấn Độ. Năm 1911, trong cuộc cách mạng Trung
Hoa, quân Tàu bị đánh bật ra thủ đô Lhassa, sau khi
đă gây nhiều cảnh giết chóc tang thương
đối với dân chúng Tây Tạng. Năm 1912,
đức Đạt Lai Lạt Ma trở vể thủ
đô Tây Tạng. Trong khi ngài vắng mặt, suốt
thời kỳ vô cùng khó khăn ở quốc nội, cha tôi
đă cùng với các quan chức đồng liêu trong nội
có đảm đương trọng trách của Chánh
Phủ. Mẹ tôi thường nói rằng trách nhiệm
nặng nề đó đă làm cho cha tôi giảm thọ
rất nhiều. Một điều chắc chắn là
người không có thời giờ săn sóc con cái và
người không hề có dịp biểu lộ t́nh phụ
tử đậm đà đối với chúng tôi.
Dường như tôi có cái
khả năng đặc biệt là hay làm cho cha tôi nóng
giận nên ông Tzu, bản tính vốn đă khắc
nghiệt, lại được cha tôi giao phó trách nhiệm
là bắt buộc tôi phải vâng lời tuyệt
đối, bằng lời êm dịu hay "Bằng roi
vọt nếu cần."
Ông Tzu lại coi
việc cưỡi ngựa dở của tôi như là
một sự sỉ nhục cho vai tṛ huấn luyện viên
của ông ta. Ở Tây Tạng, trẻ con trong các gia đ́nh quư
tộc tập cưỡi ngựa trước khi tập
đi! Làm một người kỵ mă giỏi là một
điều tối cần thiết trong một xứ núi
non không có phương tiện giao thông, một xứ mà
mọi sự di chuyển đều làbằng cách đi bo hay cưỡi
ngựa. Con nhà quư phái tập cưỡi ngựa hằng
giờ hằng phút mỗi ngày. Khi họ đă tập
luyện tinh nhục đến mức tuyệt luân, họ
có thể đứng vững trên yên ngựa đang phi
nước đại, và bắn cung hay bắn súng vào các
mục tiêu di động.
Đôi khi từng đoàn
kỵ mă đă tập luyện thuần phục phi
nước đại trong những cánh đồng, và trong
khi săi ngựa như bay họ đổi ngựa với
nhau bằng cách nhảy từ yên ngựa này sang yên ngựa
khác. Trong khi đó, năm lên bốn
tuổi, tôi lại thấy khó khăn mà ngồi vững
trên một yên ngựa.
Xứ Tây Tạng là một
nước sùng thượng thần quyền. Sự
"Tiến bộ" của thế giới bên ngoài không
làm cho dân tộc xứ ấy ham thích. Người Tây
Tạng chỉ muốn tự do thiền định suy
tư và vượt qua những giới hạn của xác
thể. Từ lâu, những nhà hiền triết
của xứ này vẫn từng biết rằng những
tài nguyên phong phú của xứ Tây Tạng khêu gợi ḷng tham
của các nước Tây phương và họ biết
rằng khi nào người ngoại bang đến xứ
này là sẽ không có ḥa b́nh.
Nhà tôi ở tại khu
Lingkhor, một khu vực sang trọng của thủ đô
Lhassa, ở bên đường lộ bao quanh
đường phố, và ở dưới bóng mát của
điện Potala. Chung quanh Lhassa có ba đường ṿng
đồng tâm, con đường ở ṿng ngoài, cũng
gọi là đường Ling khor làcon đường quen
thuộc của khách hành hương.
Cũng như
tất cả các ngôi nhà khác ở Lhassa, vào lúc tôi mới
sinh, nhà tôi chỉ có hai tầng ở phía day mặt ra
đường lộ. Mọi người đều bị
tuyệt đối cấm nhặt không được
cất nhà nhiều tầng và vượt quá chiều cao
đó, v́ không ai được phép từ trên cao nh́n
xuống đức Đạt Lai Lạt Ma. Nhưng v́
lịnh cấm này thật ra chỉ áp dụng mỗi
năm có một lần vào dịp rước lễ
hằng năm, nên nhiều người dân Tây Tạng
cất trên nóc bằng của nhà họ thêm một tầng
nữa bằng cây ván có thể tháo gỡ được
dể dàng, mà họ có thể sử dụng mỗi năm
trong mười một tháng.
Nhà tôi ở là
một ngôi kiến trúc cổ bằng đá, h́nh vuông, xây
trên một khu đất rộng và bao bọc xung quanh
một cái sân giữa.
Năm 1910, trong cuộc xâm lăng của quân Trung
Hoa, nhà tôi bị tàn phá hết một phần, nhất
lànhững vách tường phía trong. Về sau, cha tôi
đă cho xây cất lại bốn tầng lầu. V́ những
tầng lầu này không day ra ngoài đường cái,
tức con đường Ling khor, nên chúng tôi không thể
từ trên cao nh́n xuống đức Đạt Lai Lạt
Ma trong cuộc rước lễ hằng năm, thành
thử không ai phàn nàn hay phản đối.
Cánh cửa lớn
trổ ra cái sân giữa rất kiên cố và trở nên xám
đen với thời gian. Quân Tàu không chọc thủng nổi cánh
cửa dày và chắc nịch này nên chúng đă triệt
hạ một góc tường để lọt vào nhà.
Từ một văn pḥng
đặt ở ngay phía trên cái cửa này, người
quản gia để ư quan sát những kẻ ra vào.
Người quản gia này có quyền thâu dụng hoặc sa thải những
kẻ nô bọc, và chăm lo chu đáo mọi việc
lớn nhỏ trong nhà. Khi những tiếng kèn trong
những tu viện đón chào bóng hoàng hôn, đánh dấu
một ngày sắp tàn, th́ những kẻ hành khất
của thủ đô Lhassa tề tựu đến
trước cánh cửa sổ của vị quản gia
để nhận lănh những phần ăn của họ
trong chiều hôm đó. Theo thủ tục đó, tất
cả những nhà danh giá quư tộc bố thí cho kẻ nghèo
ở trong vùng của họ ở. Những kẻ tù
phạm bị xiềng xích cũng thường đến
xin ăn, v́ khám đường rất hiếm và họ
đi rảo khắp các nẻo đường để
xin của bố thí.
Ở Tây Tạng, những
kẻ tu phạm không bị khinh khi hay đối xử tàn
tệ như những kẻ hạ cấp. Người ra
biết rằng phần nhiều trong thành phần của
họ có lẽ ở vào t́nh trạng của những
người tù phạm kia nếu họ bị bắt quả tang, bởi đó
những kẻ phạm pháp ít may mắn hơn
được đối xử một cách tương
đối dễ chịu.
Có hai vị sư săi trú
ngụ trong các pḥng ở phía tay mặt gian pḥng
của vị quản gia; đó là các vị tư tế có
phận sự cầu nguyện Trời Phật gia hộ
cho gia đ́nh chúng tôi. Những gia đ́nh quư tộc bậc
trung hay bậc thấp hơn chỉ có một vị tư
tế trong nhà; cấp đẳng xă hội của gia
đ́nh tôi bắt buộc phải có hai vị. Các vị tư tế
này không được hỏi ư kiến trước
mỗi biến cố hay quyết định quan trọng,
và họ có bổn phận cầu nguyện các đấng
Thiêng liêng che chở và ban ân huệ cho gia
đ́nh chúng tôi. Ba năm một lần, họ lại
trở về tu viện của họ, và những sư săi
khác đến thay thế.
Mỗi chái ở hai bên hông nhà là
một đền thờ nhỏ trong đó những
ngọn đèn thắp bằng bơ cháy sáng ngày như
đêm trên một bàn thờ bằng gỗ chạm. Trên bàn thờ,
bảy chén nước Thánh được lau chùi sạch
bóng và được thay nước mới nhiều
lần trong ngày.
Các vị tư tế
được ăn uống đầy đủ, họ
dùng các thức ăn như người trong gia đ́nh,
để cho những lời cầu nguyện của
họ được sốt sắng hơn và để
cho thần thánh biết rằng họ được
biệt đăi.
Ở bên trái gian pḥng vị
quản gia, là pḥng của vị cố vấn luật pháp,
vị này có phận sự xem xét cách giữ ǵn nhà cửa
của gia đ́nh tôi cho đúng theo nghi thức
của nhà quyền quí. Người Tây Tạng rất tôn
trọng luật lệ, và để làm gương cho dân
chúng, cha tôi phải xử thế như một công dân
gương mẫu.
Anh tôi, Paljor,
chị tôi, Yasodhara và tôi cùng ở tại phần mới xây
cất của ngôi nhà. Paljor không sống được lâu v́
không có đủ sức khỏe để chấp nhận
cuộc sống khắc khổ, dành cho mọi đứa
trẻ con nhà quư tộc. Anh tôi qua đời trước khi lên
bảy tuổi. Khi ấy Yaso lên sáu và tôi mới lên
bốn. Tôi vẫn c̣n
h́nh dung anh tôi, chỉ c̣n là một cái xác không hồn, ngày mà
những Âm Công đến lượm xác anh tôi để
làm lễ "điểu táng" tức là chặt
từng mảnh quăng cho kên kên ăn theo phong tục
bổn xứ.
Khi tôi trở thành
người con trai kế nghiệp của gia đ́nh, th́
sự giáo dục của tôi được săn sóc chu đáo. Năm tôi
lên bốn tuổi, tôi hăy c̣n là một kỵ mă quá dở! Cha tôi vốn
dĩ đă là một người rất nghiêm khắc, nay
với tư cách là một chức sắc của giáo
hội, bèn đặt tôi vào một thứ kỷ luật sắt
để làm gương cho sự giáo dục của
những đứa trẻ khác.
Ở xứ Tây
Tạng, một đứa trẻ thuộc giai cấp càng
cao th́ sự giáo dục của nó lại càng nghiêm khắc. Và nhà quư tộc
đă bắt đầu chủ trương một kỷ
luật ít khắc khổ hơn cho sự giáo dục
thiếu nhi, nhưng cha tôi không đồng ư, viện lẽ
rằng những đứa trẻ nghèo hèn không hy vọng
có một đời sống tiện nghi sung sướng
hơn trong tương lai, cần phải được
đối xử một cách dịu dàng tử tế khi
chúng c̣n nhỏ. Trái lại, những đứa trẻ con
nhà quư tộc, được thụ hưởng mọi
thứ tiện nghi sung sướng khi đến tuổi
trưởng thành, nên cần phải được giáo
dục trong sự khắc khổ tối đa khi chúng tôi
c̣n nhỏ, để nhờ sự kinh nghiệm trong đau
khổ mà chúng mới biết thương người
về sau này. Đó cũng là quan điểm chánh thức
của chánh phủ Tây Tạng. Chánh sách đó rất tai hại
đối với những đứa trẻ có thể
chất yếu đuối, nhưng c̣n những đứa
nào vượt qua được mà không chết th́ sẽ
có thể đương đầu với bất cứ
một nghịch cảnh nào?
Vơ sư Tzu
chiếm một gian nhà ở từng dưới gần
chỗ cửa vào. Sau khi đă có dịp quan sát đủ mọi hạng
người trong nhiều năm với tư cách là một
sư săi cảnh binh, ông ta không thể sống ẩn
dật lánh đời, v́ cuộc sống đó không thích
hợp với nếp sống quen thuộc của ông ta.
Gần bên pḥng của ông ta ở, là những chuồng
ngựa, trong đó cha tôi nuôi hai chục con ngựa, cùng
những loài vật kéo xe khác.
Những người
giữ ngựa không ưa ông Tzu v́ tánh quá sốt sắng
của ông ta và thói quen hay xen vào công việc của họ.
Khi cha tôi cưỡi
ngựa đi đâu, th́ luôn luôn có sáu người kỵ mă
vơ trang đi theo hộ vệ. Những người cận vệ này
đều mặc đồng phục và ông Tzu luôn luôn
kiểm soát chặt chẽ để giữ cho y phục
của họ lúc nào cũng được chỉnh tề.
V́ một lư do mà tôi không
biết rơ, sáu người kỵ mă này có thói quen ngồi
trên lưng ngựa sắp thành hàng giờ day lưng vào
tường của một lẫm lúa, và phóng ngựa
chạy theo khi thấy cha tôi vừa xuất hiện. Tôi nhận
thấy rằng nếu tôi nghiêng ḿnh ra ngoài cửa sổ
của lẫm lúa, th́ một trong những người
kỵ mă lọt vào tầm tay của tôi. Một
ngày nọ, nhân lúc không có việc ǵ làm, tôi bèn rón rén
đến gần và xỏ một sợi dây gai vào cái đai da nịt lưng
của y trong khi y đang kiểm điểm đồ
tư trang trước khi lên đường. Kế đó
tôi cột chặt cả hai đầu dây và máng một
đầu vào một cái móc sắt ở bên trong lẫm lúa. Việc ấy
hoàn toàn diễn ra trong âm thầm không ai để ư,
giữa lúc mọi người đang mắc bận
rộn rối rít. Khi cha tôi vừa xuất hiện đoàn kỵ mă phóng
ngựa chạy theo, trừ ra người thứ sáu mắc phải
sợi dây nên bị té ngựa và kêu la ỏm tỏi.
Cái đai nịt lưng
của y sút ra và trong cơn náo loạn, tôi lén rút lại
sợi dây gai và biến mất mà không ai hay biết. Ngày hôm
sau, tôi lấy làm khoái trá mà nói với nạn nhân sự
đùa nghịch của tôi: "Thế nào, Nê Túc, tôi
tưởng chỉ có một ḿnh tôi là cưỡi ngựa
dở, c̣n anh cũng vậy sao?"
Chương tŕnh
học của chúng tôi gồm có Hán văn, chữ Tây
Tạng, toán học và khắc bản gỗ. Về việc
ấn loát ở Tây Tạng, người ta thường
dùng những bản gỗ có khắc chữ, nên việc
khắc bản gỗ được coi như một
bộ môn rất hữu ích.
Lớp học
của chúng tôi là một gian pḥng rất rộng có thể
chứa độ sáu chục đứa trẻ. Chúng tôi ngồi
xếp bằng trên sàn gạch, trước một cái bàn
hay một cái ghế dài, chiều cao độ năm
tấc tây và ngồi xoay lưng về phía thầy học để
cho chúng tôi không thể biết rằng thầy có nh́n ḿnh hay
không. Thầy bắt chúng tôi học một cách
rất kham khổ và không để chúng tôi nghỉ ngơi
một giây phút nào.
Có một phần trong
chương tŕnh học mà tôi không bao giờ quên: đó là
lập lại những Điều Răn tôn giáo. Chúng tôi
phải đọc những Điều Răn này khi vào
lớp và lập lại một lần nữa trước
khi rời khỏi lớp vào giờ tan học. Đó là:
Hăy
lấy ân báo ân, lấy đức báo đức
Đừng ăn hiếp
những kẻ hiền lành
Hăy siêng đọc các kinh
điển và giáo lư
Hăy giúp đỡ kẻ
đồng loại
Luật pháp khắc khổ
đối với kẻ giàu sang
Để dạy họ sự
thông cảm và sự công bằng
Luật pháp khoan hồng
đối với kẻ nghèo hèn để an ủi họ
Hăy trả dứt nghiệp
quả nợ nần càng sớm càng hay
Để cho chúng tôi không
thể nào quên, những Điều Răn đó
được viết trên những tấm bản đóng
trên bốn vách tường của lớp học.
Tuy nhiên, cuộc
đời hằng ngày của chúng tôi không phải hoàn toàn
dành cho sự học và sự sống khắc khổ. Chúng tôi cũng lao ḿnh vào những
cuộc chơi điền kinh, thể dục một cách
hăng say ngoài giờ học. Những môn thể dục
này được đặt ra để tạo cho chúng
tôi một thể xác cường tráng có thể chịu
đựng khí hậu vô cùng gắt gao của xứ Tây
Tạng. Ở xứ này, vào lúc giữa trưa mùa hè
nhiệt độ lên rất cao và ban đêm có thể
xuống thấp dưới không độ. Vào mùa đông,
thời tiết c̣n lạnh hơn thế rất nhiều.
Bắn cung, một
môn thể dục rất tốt để làm nở nang
bắp thịt và để tập nhắm một cách chính
xác, là bộ môn mà chúng tôi rất thích. Cung nỏ
của chúng tôi dùng đều làm bằng gỗ mun nhập
cảng từ Ấn Độ; người ta chế
tạo những cái ná bằng gỗ bổn xứ. Là Phật
tử chân chính, chúng tôi không bao giờ bắn loài thú
vật. Để
tập bắn cung chúng tôi dùng những cái bia di động, mà
những kẻ gia nô núp ở chỗ ẩn khuất
cầm dây kéo lên hoặc hạ xuống bất thần mà
không cho chúng tôi hay. Phần nhiều những bạn
hữu của tôi có thể bắn trúng đích trong khi
họ săi ngựa như bay. Về phần tôi, trái lại, tôi không
thể ngồi vững trên lưng ngựa được
lâu như thế!
Một tṛ chơi
tiêu khiển khác là đi cà khêu. Chúng tôi dùng hai cây cà khêu, giống
như hai cây nạng gỗ nhưng rất dài, có bàn
đạp để xỏ hai chân vào đó, và sau khi đă
ngụy trang làm những người khổng lồ, chúng
tôi thường xáp chiến với nhau trong những
cuộc đấu sức dị kỳ, kẻ nào thua là
kẻ bị té ngă trước nhất.
C̣n những môn
thể dục khác nữa là nhảy sào, và đá cầu. Nhưng ở
Tây Tạng nhất là ở vùng ngoại ô thủ đô
Lhassa, cuộc chơi thịnh hành nhất là môn thả
diều, mà người ta có thể gọi là môn thể
dục của dân tộc. Chúng tôi chỉ có thể chơi
diều vào những mùa nhất định. Nhiều năm
về trước, người ta nhận thấy rằng
thả diều trên những vùng núi cao đă gây nên những
trận mưa lũ, khi đó người ta nghĩ
rằng có lẽ các vị thần làm mưa đă nổi
giận, nên dân chúng chỉ được phép chơi
diều vào mùa thu, tức là mùa tạnh ráo ở Tây Tạng.
Có những ngày nhất định, người ta giữ
im lặng không kêu to ở các miền núi, v́ tiếng vang
của họ gây nên một sự chuyển động quá
mau của những đám mây mù ẩm thấp từ bên
Ấn Độ bay qua, do đó mà có những trận
mưa lũ bất ngờ.
Ngày đầu mùa thu, một con
diều đầu tiên được phóng lên từ nóc
điện Potala. Trong vài phút, những con diều khác
đủ mọi h́nh thức, lớn nhỏ đủ
cỡ và đủ các màu sắc, liền xuất hiện
trên nền trời Lhassa, trên đó chúng nó bay lượn nhảy
nhót theo chiều gió thổi mạnh.
Tôi rất say mê cuộc
chơi này và luôn luôn sắp đặt cách nào để con
diều của tôi bay lên trong số những con đầu
tiên. Mọi đứa trẻ con đều tự tay chúng nó chế
tạo những con diều của ḿnh, thường là
với một cái sườn bằng tre được bao
bọc ở phía ngoài bằng một thứ hàng tơ rất
đẹp. Chúng tôi làm diều bằng những
vật liệu thứ tốt hảo hạng v́ danh dự
của gia đ́nh cũng có liên hệ trong cuộc chơi
này. Cái sườn
bằng gỗ giống như cái hộp được
chế tạo xong, chúng tôi mới gắn vào đó cái
đầu, hai cánh và cái đuôi một con rồng có một
h́nh dáng dữ tợn.
Cuộc tranh
đấu bằng diều diễn ra một cách vô cùng sôi
nổi trong khi đó, chúng tôi cố gắng hạ những
con diều của các địch thủ. Để
thực hiện điều đó, chúng tôi gắn những
miểng chai trên diều của chúng tôi và ngâm sợi dây
diều trong một thứ keo trộn với bột
thủy tinh nghiền nát; sau đó, chúng tôi chỉ cần
phóng diều lên để cắt đứt sợi dây
của các địch thủ và bắt lấy con diều
của họ.
Đôi khi, lúc trời
tối chúng tôi lén thả diều lên trời sau khi đă
cột chặt những cái đèn nhỏ thắp bằng bơ vào bên trong cái
sườn gỗ và ở chỗ đầu rồng.
Đôi mắt rồng liền phóng ra những tia lửa đỏ
và ḿnh rồng lóng lánh muôn màu ngh́n sắc liền nổi
bật trên không trung giữa nền trời u ám của
đêm khuya. Chúng tôi đặc biệt thích cuộc chơi
này khi có những đoàn thương buôn lớn chở hàng
trên lưng những con Yak từ vùng Lhodzong đến
thủ đô Lhassa. Với tuổi ngây thơ chúng tôi
nghĩ rằng người thương buôn "Dốt
nát" ở các vùng quê hẻo lánh chắc chưa bao
giờ nghe nói đến những phát minh diễm ảo tân
ḱ như những con diều của chúng tôi. Vậy nên chúng
tôi quyết định gây cho họ một cơn sợ
sệt kinh hoàng một phen nên thân.
Một trong những phát
minh khác nữa của chúng tôi là gắn trong ḿnh con diều
ba loại vỏ ốc khác nhau, và đặt cách nào cho gió
thổi vào làm các vỏ ốc phát ra một tiếng hú kinh
hồn. Khi thả diều lên trời, con rồng lửa
uốn khúc muôn màu phát ra những tiếng rú rùng rợn trong
đên khuya, và chúng tôi hy vọng rằng nó sẽ gây cho các
tay thương buôn đến từ các tỉnh lẻ xa
xôi một cơn sợ sệt mà họ sẽ nhớ
đến suốt đời không quên.
Tây Tạng không phải là
xứ có thể dung nạp những người có thể
chất yếu đuối. Thủ đô Lhassa
ở vào một vùng cao nguyên bốn ngàn thước cao
hơn mặt biển, có một thời tiết rất
chênh lệch giữa cực nóng và cực lạnh. Những vùng cao
hơn lại có một khí hậu gắt gao hơn nữa. Những
người có thể chất yếu đuối có thể
làm liên lụy đến sự sống của kẻ khác. Chính v́ bởi
lẽ đó, chứ không phải do sự tàn ác, mà sự
giáo dục thiếu nhi thật là vô cùng khắc khổ như đă kể
trên.
Ở những vùng sơn
cước, người ta đem ngâm những đứa
trẻ sơ sinh dưới suối nước lạnh và
xem chúng có đủ sức chịu đựng dẻo dai hay không, để
có quyền sống như mọi người. Tôi
thường thấy những người đi diễn
hành đến một ngọn suối, ở một vùng núi
non chiều cao trên sáu ngàn thước. Đến bờ
suối, đoàn người dừng lại, một bà lăo
bồng đứa trẻ sơ sinh trên tay, rồi cả gia
đ́nh gồm cha, mẹ và thân quyến đứa trẻ
ngồi vây chung quanh bà. Khi người ta lột hết áo
quần đứa trẻ, bà lăo bèn ngâm thân ḿnh đứa
bé sơ sinh dưới nước suối, chỉ c̣n
thấy cái đầu nhô lên khỏi mặt nước. Dưới
nước suối lạnh buốt, thân ḿnh đứa
trẻ trở nên đỏ au, rồi xanh giờn,
những tiếng kêu của nó đă im bặt, nó không c̣n kêu
la phản đối nữa. Nó có vẻ chết lịm, nhưng bà
lăo đă từng kinh nghiệm nhiều về việc này
bèn rút nó lên khỏi mặt nước, lau chùi khô ráo và
mặc quần áo lại cho đứa bé. Nó sống
lại chăng? Đó là các thần linh đă quyết
định như thế. Nếu nó chết, th́ đó lại càng
hay v́ nó khỏi phải chịu những sự khổ
đau về sau này của cuộc đời trần
thế! Người ta không thể làm ǵ khác hơn
dưới một khí hậu gắt gao như ở Tây
Tạng. Không nên có những kẻ bịnh hoạn, yếu
đuối ở một xứ mà mọi phương
tiện cứu trợ y tế đều thiếu
thốn: Thà để vài đứa bé sơ sinh chết c̣n
hay hơn.
Khi anh tôi qua
đời, th́ tôi cần phải xúc tiến việc
một cách ráo riết hơn. Thật vậy, vào năm lên bảy
tuổi, tôi đă phải bắt đầu chuẩn bị
tương lai. Tôi sẽ đi theo con đường nào và chọn lựa nghành hoạt
động nào? Điều đó sẽ do các nhà chiêm tinh
quyết định. Ở Tây Tạng, bất cứ
việc ǵ lớn nhỏ, từ việc mua một con Yak
đến việc chọn một nghề nghiệp,
đều do sự quyết đoán của các nhà chiêm tinh.
Trước ngày sinh nhật năm tôi lên bảy, mẹ tôi
mở một cuộc tiếp tân khổng lồ, trong
dịp đó những quan khách gồm các nhà quư tộc và các
chức viên cao cấp trong chánh phủ được
mời tham dự để nghe những lời tiên tri
của các nhà chiêm tinh.
Mẹ tôi là một
mệnh phụ đảm đang, với một vóc
vạc phương phi, một gương mặt tṛn và tóc
đen huyền. Những phụ nữ Tây Tạng bới đầu theo một kiểu
rất mỹ thuật và cài trên mái tóc một thứ
lược bằng gỗ. Những
lược gỗ này thường sơn mài màu đỏ
thắm, có cẩn những hột đá quí, cẩm
thạch hoặc san hô, là những mỹ phẩm làm rất
khéo léo. Cài trên một
đầu tóc đen huyền có sức dầu bóng loáng,
những lược sơn mài đó tạo nến một
vẻ đẹp rất thanh lịch.
Những áo dài Tây
Tạng có những màu sắc rất vui mắt mà nổi
bật nhất là màu đỏ, màu lục và màu vàng. Thường
ngày các bà nội trợ đeo phía trước ngực
một mảnh vải trơn với một cái vệt
ngang khác màu, nhưng màu sắc được chọn cho
tiệp với nhau một cách mỹ thuật. Họ đeo
những chiếc bông tai mà kích thước lớn nhỏ tùy nơi giai cấp
của họ trong xă hội. Mẹ tôi, xuất thân từ
một gia đ́nh quyền quí, đeo những chiếc bông tai dài trên muời
lăm phân tây.
Người Tây
Tạng chủ trương một sự b́nh đẳng
tuyệt đối giữa nam và nữ. Nhưng về
vấn đề coi sóc nội trợ gia đ́nh, mẹ tôi
không phải chỉ bằng ḷng với sự b́nh
đẳng. Với một ư chí độc tài và
một quyền hành tuyệt đối, mẹ tôi ngự
trị trong gia đ́nh như một nhà vua, mẹ tôi
biết mẹ tôi muốn ǵ và khi muốn ǵ mẹ tôi
phải được cái đó.
Trong sự nhộn
nhịp xôn xao nhân dịp chuẩn bị cuộc tiếp
tân, mẹ tôi mới thật sự là có đất dụng
vơ. Nào là tổ
chức, phải ra lệnh, soạn thảo kế
hoạch để "Aên đứt" những kẻ
láng giềng. Mẹ tôi tỏ ra rất thông thạo v́ trong nhiều
chuyến du hành theo cha tôi sang Ấn Độ, Bắc Kinh và Thượng
Hải, mẹ tôi đă thu thập được hằng
khối những sáng kiến nước ngoài.
Khi ngày tiếp tân đă
định, những sư săi như thư kí mới viết
thiệp mời trên một loại giấy dày, làm bằng
tay, chỉ được dùng trong những dịp giao
tế tối quan trọng. Mỗi thiệp mời đo
độ ba mươi phân bề ngang trên sáu mươi
phân bề dài và có đóng triện son của người
gia trưởng. Mẹ tôi cũng đóng triện son
riêng của ḿnh vào đó v́ người thuộc về ḍng
dơi quư phái. Ngoài ra lại
c̣n một cái triện chung cho cả gia đ́nh, tức là có
tất cả ba cái triện son đóng trên thiệp mời,
làm cho nó trở nên một bản văn kiện thật là
nghiêm trọng. Nghĩ rằng tôi là nguyên nhân cho tất
cả những lễ nghi trịnh trọng đó làm cho tôi
rùng ḿnh. Tôi không biết rằng tầm quan
trọng của tôi thật ra chỉ là phụ thuộc so
với một tập quán xă hội. Nếu người ta nói cho tôi
biết rằng cuộc tiếp tân long trọng này sẽ
đem nhiều vinh dự cho cha mẹ tôi, th́ tôi sẽ không
hiểu ǵ cả. Bởi vậy, tôi vẫn nơm
nớp lo sợ.
Những sứ giả
đem thơ được đặc biệt thu dụng trong
dịp này để đem các thiệp mời đến
các quan khách. Mỗi người đều cưỡi
một con tuấn mă và cầm nơi tay một cái gậy
ngắn có khe hở ở một đầu để
xếp cái thiệp mời vào đó, ở ngoài bao có in
những phù hiệu chánh thức của gia đ́nh chúng tôi.
Khi các sứ giả đă
sẵn sàng lên đường th́ trong sân nhà chúng tôi diễn
ra một cảnh tượng náo động khôn tả. Các
gia nô kêu gọi nhau đến khan cả cổ họng,
ngựa hí vang tai, những con chó ngao đen lớn sủa ầm lên
như điên. Sau một chầu rượu bia cuối cùng,
những chàng kỵ mă đặt mạnh những ly
cốc xuống bàn, trong khi đó những cánh cửa
cổng nặng nề đă mở ra với những
tiếng động ầm ĩ và đoàn kỵ mă vừa
phóng ngựa phi nước đại vừa hét vang tai nghe
thật rùng rợn.
Nếu họ mang những
bức thơ tín viết tay th́ đồng
thời các sứ giả cũng chuyển đạt luôn
một thông điệp truyền khẩu, mà nội dung có thể
hoàn toàn khác hẳn. Hồi thời xưa, những tay côn đồ,
cường đạo thường phục kích các sứ
giả đem thơ ở giữa đường rồi
ngụy trang và dùng những bức thông điệp đó
để tấn công một ngôi nhà không pḥng thủ hay
một đoàn thương buôn chẳng hạn. Từ đó,
người ta thường cố ư viết những
thơ tín giả để gài bẫy và dụ bọn
cướp đến những chỗ có phục binh và tiêu
diệt chúng. Thủ tục cổ truyền về việc gởi
đi một lượt hai thông điệp, một
viết tay và một truyền khẩu, là một cái di sản
của thời quá khứ. Dầu cho ở
thời đại này, người ta cũng có khi gởi
đi hai thông điệp song đôi như thế; trong
trường hợp đó th́ chỉ có thông điệp
truyền khẩu mới có giá trị.
Trong nhà tôi thật là náo
nhiệt tưng bừng! Những vách và
trần nhà được phết lên một lớp sơn
mới, những sàn gỗ được đánh bóng
trơn tru đến nỗi đi phải coi chừng
kẻo trượt ngă. Những bàn thờ được lau
chùi và sơn phết lại sạch bóng. Một số
lớn những ngọn đèn mới thắp bằng bơ được
đem ra sử dụng; có những ngọn đèn bằng
vàng và những ngọn đèn khác bằng bạc, nhưng
cả thảy đều lau chùi bóng láng đến nỗi
không thể phân biệt được nữa. Mẹ tôi và
người quản gia không ngớt chạy tới
chạy lui trong nhà, chỉ trích, sửa đổi chỗ
này, dọn dẹp sắp đặt chỗ kia và ra lệnh cho
những kẻ gia nô làm việc không hở tay. Cha mẹ tôi có
trên năm chục người nô bộc giúp việc nhà và
có một số khác được thâu dụng thêm trong
việc tiếp tân. Không một người nào là nhàn rỗi và tất
cả đều làm việc một cách hăng hái. Sân nhà
cũng được quét dọn, lau chùi cho đến khi
những tảng đá chiếu sáng ngời như mới
vừa đem ở động đá về. Để làm
cho sân nhà có vẻ lộng lẫy, những chỗ trống
ở giữa các phiến đá cũng được tô
thêm một lớp màu. Khi mọi việc đều xong xuôi,
mẹ tôi tụ tập tất cả gia nhân và ra lệnh
cho họ hăy mặc đồng phục tươm tất,
chỉnh tề.
Trong nhà bếp, có
sự hoạt động ráo riết ngày đêm để
chuẩn bị đầy đủ các đồ cao
lương mỹ vị đăi khách. Xứ Tây Tạng là một cái tủ
lạnh thiên nhiên, đồ vật thực một khi
đă nấu nướng xong, có thể để dành
rất lâu mà không hư hoại, v́ thời tiết lạnh
và khô ráo. Dẫu cho khi
tiết trời nóng bức, bầu không khí khô ráo cũng
giữ cho các thức ăn không hư. Nhờ đó,
thịt có thể để dành suốt năm mà vẫn c̣n
tươi và lúa ḿ có thể để dành suốt nhiều
thế kỷ.
V́ người Phật
tử giữ giới bất sát sinh, nên người ta
chỉ ăn thịt những con thú v́ rủi ro bị té
chết trong khe núi, hoặc chết bởi các tai nạn
khác.
Nhà bếp của
gia đ́nh tôi có trữ sẵn nhiều loại thịt này. Ở Tây Tạng
cũng có những người làm nghề đồ
tể, bán thịt nhưng những gia đ́nh Phật
tử chính thống không giao tiếp với hạng
người này, v́ họ thuộc về một giai cấp
hạ tiện, "Bất khả tiếp xúc".
Mẹ tôi quyết
định tiếp tân theo một lối vừa khác thường vừa linh
đ́nh trọng thể, và đăi khách một món đặc
biệt là món mứt hoa rhododendron. Vài tuần lễ
trước, những kẻ gia nô nhà tôi đă cưỡi
ngựa đến tận triền núi Tuyết Sơn là
nơi có những loại hoa đẹp nhất. Ở Tây Tạng,
hoa rhododendron mọc rất lớn và có rất nhiều
loại thuộc đủ các màu sắc và hương thơm. Người ta
chọn những hoa chưa nở hẳn và đem về
rửa sạch một cách rất cẩn thận. Thật
vậy, nếu một cái hoa hơi nát một chút là làm cho
mứt bị hỏng. Kế đó, mỗi hoa được
để ngâm trong một cái bồn thủy tinh lớn
chứa đầy nước và mật ong, rồi
đậy thật chặt để cho kín gió. Mỗi ngày và
liên tiếp trong nhiều tuần, bồn hoa
được đem phơi nắng và xoay trở từng
kỳ hạn để cho tất cả các phần
của hoa đều được hứng ánh nắng
cần thiết. Hoa trong bồn nở lớn từ từ và thấm
nhuần chất nước pha mật ong. Có
người thích đem phơi gió vài ngày trước khi ăn để cho hoa được
khô và hơi gịn, mà vẫn không mất hương vị hay
sắc tươi của nó. Họ cũng
rắc đường lên các cánh hoa để cho nó có
vẻ đượm tuyết giống như thiên nhiên. Tất cả
những phí tổn để làm món mứt hoa này làm cho cha
tôi nhăn nhó, cằn nhằn. Người nói: "Với cái giá
tiền để mua những hoa đẹp này, chúng ta có
thể mua sáu con Yak mẹ cùng với một bầy Yak
con." Mẹ tôi đáp với một giọng đầy
nữ tính:
- "Ông đừng
ngớ ngẩn. Cuộc tiếp tân của chúng ta
nhất định phải thành công, và dầu sao chăng
nữa, những phí tổn này là phần việc nội
trợ của tôi".
Món vi cá nhập cảng
từ Trung Hoa là một món mỹ vị khác, mà người
ta dùng để nấu canh. Có người nói rằng món
canh vi cá là món tuyệt
đỉnh của nghệ thuật làm bếp.
Riêng tôi, tôi nhận thấy
món ấy rất dở, và thật là một cực h́nh khi
tôi bắt buộc phải ăn món vi cá. Cá mập
được chở đến xứ Tây Tạng trong
một trạng thái mà người ta không c̣n nhận ra nó
được nữa! Ta có thể nói một cách ôn ḥa là nó
hơi kém tươi", điều này có người
lại cho rằng làm cho vi cá càng trở nên
ngon hơn.
Món măng tre non, cũng nhập
cảng từ Trung Hoa, là món ăn rất ngon: đó là món
tôi thích nhất. Có nhiều cách để nấu măng,
nhưng tôi thích nhất là ăn sống với
một chút muối. Tôi luôn luôn chọn những búp măng
vàng và xanh để ăn riêng, và bởi đó nhiều khúc
măng để trong bếp bị ngắt đứt
đầu trước khi đem lên soong chảo. Người
đầu bếp có vẻ nghi ngờ tôi, nhưng y không có
bằng cớ. Thật đáng tiếc, v́ chính y cũng thích ăn búp măng
sống!
Ở Tây Tạng,
nấu bếp là công việc của đàn ông; phụ
nữ cũng làm bếp nhưng họ rất vụng
về và không chịu cải tiến. Đàn ông có sáng
kiến hơn và chịu khó hơn, bởi đó họ
nấu ăn rất thiện nghệ. Riêng về môn
quét dọn và ngồi lê đôi mách, th́ phụ nữ
chiếm giải quán quân, và lẽ tất nhiên họ
cũng rất giỏi về vài môn khác nữa. Nhưng
nhất định là không, nếu nói về việc làm món
tsampa.
Món tsampa là món ăn căn
bản của người Tây Tạng. Nhiều
người Tây Tạng quanh năm chầy tháng chỉ
sống bằng món tsampa và trà đến suốt
đời. Món tsampa làm bằng lúa mạch nha
sấy khô cho đến khi nó trở thành gịn và có một
màu vàng sậm. Những hột lúa mạch nha khi đó mới
được giă, và tán thành bột, bột này lại
được nướng lên lần nữa và đặt
trong một cái chén, rồi người ta đổ vô
đó trà nóng trộn với bơ con Yak, một
loại ḅ lông dài. Kế đó người ta trộn cho
đều để cho nó đông đặc lại thành
một thứ bánh và cho thêm muối, chất hàn theo và bơ con Yak tùy
sở thích từng người. Thứ bánh đó
gọi là tsampa, có thể cuốn tṛn lại và cắt thành
từng khoanh, rồi dọn ra để ăn. Món tsampa là món
ăn thông thường của hạng người b́nh dân,
nó có đủ chất bổ béo để cho người
dân Tây Tạng có thể sống dưới mọi khí
hậu và trong mọi hoàn cảnh.
Một nhóm gia nô làm món
tsampa, một nhóm khác làm bơ theo một
phương pháp đặc biệt của dân bổn
xứ. Những cái bao lớn bằng da
trừu, bề mặt có lông trộn vào trong, bề trái
lộn ngược ra ngoài, được dùng làm
đồ dụng cụ đánh sữa. Người ta
đổ trong các bao da đó đầy sữa con Yak hay
sữa dê. Để tránh khỏi bị hao hớt, phần
trên các bao da đó được túm và xếp lại rồi
may lại thật chắc. Kế đó, những bao da
đựng sữa mới được nhồi thật
mạnh cho đến khi sữa trở thành chất bơ. Để
đánh sữa bằng phương pháp này, người ta
dùng một chỗ có nhô lên những tảng đá bề cao
chừng ba mươi phân. Sau khi đă đổ đầy
sữa vô bao, người ta mới buông những bao đó
cho rơi xuống các mô đá, việc này gọi là
"đánh sữa". Chừng mười kẻ gia nô làm công
việc này trong nhiều giờ liên tiếp. Họ vừa
hít một hơi thở vào vừa giơ các bao da lên cao, và
buông các bao da cho rơi xuống những mô đá với
một tiếng động êm dịu "zunk". Đôi khi một bao
da đă quá cũ hoặc do bởi người đánh
sữa quá vụng về, th́nh ĺnh nổ bung ra. Tôi c̣n nhớ
một gia nhân nhà tôi rất khỏe mạnh lực
lưỡng, y thường hay khoe khoang sức vóc của
ḿnh. Y làm việc
nhanh gấp đôi kẻ khác, và sự cố gắng làm gân
cổ y nổi vồng lên. Một ngày nọ, có người nói
với y: "Anh Timon, chắc anh già rồi, v́ bây giờ
anh làm việc không nhanh bằng khi trước."
Hét lên một tiếng
giận dữ, Timon bèn nắm lấy phía trên một bao da,
giơ lên cao với hai cánh tay khỏe mạnh
để buông cho nó rơi xuống. Nhưng sức
mạnh của y đă phản ngược lại y: Y c̣n
nắm cái miệng bao da th́ phần dưới đă
lở xuống và rớt xuống những mô đá. Một
cây cột bơ hăy c̣n hơi lỏng vọt ra và
văng trúng ngay vào giữa mặt Timon, y "Lănh
đủ" tất cả vào miệng, vào mắt, vào
mũi, vào tai, vào tóc. Năm chục đến sáu chục
lít bơ chảy tuôn
xuống dọc theo thân ḿnh y và bao phủ y bằng một
chất nhờn màu vàng.
Nghe tiếng
động, mẹ tôi hối hả chạy vào. Đó là
lần đầu tiên trong đời mà tôi thấy mẹ
tôi đứng sững nh́n trong im lặng. Có lẽ mẹ tôi
tức giận v́ thấy những bấy nhiêu bơ bị hủy
hoại chăng? Hay mẹ tôi đang lo ngại cho thằng
ngốc đang bị ngẹt thở? Dù rằng thế
nào, mẹ tôi bèn nắm lấy cái bao da rách bụng và đập
một cái lên đầu y. Chàng Timon vô phước bèn
trượt ngă xuống đất nằm sóng sượt
trên một cái ao... bơ!
Những gia nô vụng
về như Timon có thể làm hủy hoại mất
nhiều bơ. Chỉ hơi cẩu thả một
chút trong khi buông tay cho cái bao rơi xuống là những sợi lông
liền tách rời ra khỏi da và lẫn lộn với
chất sữa. Lượm lấy hai hay hai chục
sợi lông trong chất bơ đă làm xong, là
một điều rất thông thường, nhưng
nếu lại thấy có cả chùm lông trong đó th́ ấy
là một điều rất dở. Chất bơ bị hư
hoại được cất riêng một nơi
để dùng đốt đèn, hoặc để bố
thí cho những kẻ ăn mày, họ sẽ nấu lại
và lọc sạch bằng một miếng giẻ cũ
để dùng ăn lần.
Những thơ
trả lời cho thiệp mời của chúng tôi không bao lâu
đă đến. Những người kỵ mă phóng nước
đại đến nơi, tay vung lên những cây
gậy nhỏ có chẻ một đầu có đựng
những thơ tín. Khi đó người quản gia
mới bước ra để nghinh đón sứ giả
của các nhà quư tộc. Sau khi rút bức thông điệp từ
trong gậy ra, người sứ giả cũng thốt
lên một thông điệp truyền khẩu, thậm chí
không kịp lấy lại hơi thở. Kế đóù, y
sụm xuống trên hai đầu gối và để
rơi ḿnh xuống đất trong một giàn cảnh
rất khéo léo, dường nhưng để tỏ cho
mọi người thấy y đă xả thân không quản
công lao khó nhọc
để làm tṛn bổn phận và để đến nhà
gia đ́nh tôi kịp giờ!
Trong những dịp đó,
những gia nô nhà tôi thường vây chung quanh y và nói:
"Tội nghiệp thằng nhỏ!" Y đến
thật là mau! Thật là một kỳ công hăn hữu!
Chắc hẳn là y chạy mau đến muốn
đứng tim. Thật là cao quư thay, một tinh
thần phục vụ hăng say như thế!"
Một ngày nọ tôi, đă
ngứa miệng xen vào câu chuyện và nói: "Ấy không! Y
không có chạy mau đến muốn đứng tim! Tôi vừa
thấy y ngồi nghỉ mệt ở đầu làng
gần đây. Chắc y nghỉ lấy sức
để chạy một đoạn đường
cuối cùng!" Sự kín đáo bắt buộc tôi phải bỏ qua
không nói đến cái cảnh tượng vụng về
lúng túng tiếp theo đó.
Sau cùng, ngày
đại nhật đă đến, cái ngày mà tôi vẫn e
ngại biết bao, v́ người ta quyết định
cuộc đời tương lai của tôi mà không cần
hỏi ư kiến của tôi. Những tia nắng
đầu tiên của mặt trời b́nh minh vừa ló
dạng từ đằng sau các ngọn núi xa ở tận
chân trời, th́ một người gia nô bước vào
pḥng tôi: "Cậu chưa ngủ dậy ư, cậu Lâm
Bá? Hay là cậu giả vờ ngủ? Đă bảy
giờ rồi, và chúng tôi có nhiều việc phải làm. Thôi, cậu hăy
thức dậy đi!" tôi bỏ mền ra và ngồi
dậy. Ngày đó là
ngày mà con đường tương lai sẽ rộng
mở trước mắt tôi.
Ở Tây Tạng, trẻ
con được gọi bằng tên của nó do cha mẹ
đặt cho khi c̣n sống trong gia đ́nh. Nhưng khi
một đứa trẻ bước vào tu viện, nó
nhận được một tên khác, đó là pháp danh
của nó. Đó là
trường hợp của tôi chăng? Phải
đợi những giờ sắp tới đây mới
biết được. Tôi đă lên bảy tuổi và muốn
trở nên một người chèo đ̣ để thả
thuyền lênh đênh trên sông TsangPo,cách đó độ
sáu chục cây số. Nhưng hăy khoan, để c̣n xem
lại. Tôi có thật
sự muốn điều đó chăng? Dầu sao,
những người chèo đ̣ đều thuộc giai
cấp dưới, v́ những đ̣ của họ
đều làm bằng da con Yak đóng trên những cái khuôn
bằng gỗ. Tôi, một anh lái đ̣? Tôi, một
người thuộc gia cấp hạ tiện? Không. Không phải
vậy. Tôi muốn
trở nên một nhà chuyên nghiệp về môn thả
diều. Ừ,
phải đấy, thả diều trên không trung, nhảy
tự do như không khí, c̣n hơn là ngồi trong một
chiếc đ̣ căng bằng da thú, làm hạ nhân cách và trôi
theo ḍng
nước xoáy mạnh nguy hiểm. Một chuyên viên
thả diều, đó là điều mà tôi muốn làm, và tôi
sẽ chế tạo những con diều khổng lồ
với những cái đầu tôi lớn và đôi mắt
sáng rực như lửa. Nhưng hôm nay,
những giáo sĩ chiêm tinh sẽ có quyền quyết
định. Có lẽ tôi đă chờ đợi quá lâu: Nay th́
đă quá trễ để nhảy qua cửa sổ và
chạy trốn. Cha tôi chắc sẽ cho người
chạy theo bắt tôi trở lại. Dầu sao, tôi là con nhà
thế gia vọng tộc và tôi phải tuân theo truyền
thống. Biết đâu các nhà chiêm tinh chẳng
tiên tri rằng tôi sinh ra đời để làm một
chuyên viên thả diều? Tôi chỉ có thể đợi chờ
và hy vọng.
Lời Tiên Tri
Ồ Vân Kỳ, anh bứng
hết tóc của tôi! Dừng tay lại, không th́
đầu tôi sẽ sói như một ông săi.
- Hăy để yên, Lâm Bá. Cái
bín tóc của cậu phải được thắt cho ngay
và thoa bơ cho láng bóng, nếu không th́ bà lớn
sẽ trừng phạt tôi.
- Hăy nhẹ tay một chút, Vân
Kỳ, anh vặn cổ tôi đau quá!
- Không sao đâu, tôi phải
làm gấp mới được.
Tôi ngồi dưới
đất và một kẻ nô lệ phũ phàng với hai
bàn tay chuối
mắn, vặn cái bín tóc tôi như người ta vặn cái
"Maniven" quay máy xe hơi! Sau cùng cái bín tóc tôi trở
nên cứng đơ như một con yak bị rét cóng và
sáng ngời như ánh trăng rằm trên mặt hồ.
Mẹ tôi bận
rộn quay cuồng như cơn gió lốc; mẹ di
chuyển trong nhà mau lẹ dường như người
có phép phân thân ở nhiều chỗ cùng một lúc. Có những chỉ
thị vào giờ chót, những sự chuẩn bị
cuối cùng, và rất nhiều lời lăng xăng
dường như một mệnh phụ bốn
mươi cái xuân. Cha tôi trốn cảnh náo nhiệt
ồn ào đó bằng cách bế môn và rút lui vào pḥng riêng
của ḿnh.
Mẹ tôi quyết
định đưa chúng tôi đến JoKang, ngôi
đền lớn ở thủ đô Lhassa; đó hẳn là
v́ mẹ tôi muốn cho cuộc lễ tiếp tân được
diễn ra trong một bầu không khí tôn giáo. Vào lúc mười
giờ sáng, một tiếng cồng với ba âm
điệu khác nhau điểm giờ tựu họp. Chúng tôi tất
cả đều cưỡi ngựa, cha tôi, mẹ tôi, Yaso
và tôi cùng vài người trong thân quyến sửa soạn
lên đường. Chúng tôi noi theo con đường LingKhor, và đi ṿng
quanh dưới chân điện Potala, một ṭa cung
điện lâu đài nguy nga tráng lệ của vị
Đạt Lai Lạt Ma, độ một trăm ba
mươi thước bề cao và bốn trăm
thước chiều dài. Sau khi đi qua làng
Shô, và đi ngựa mất nửa giờ trên đồng
bằng Kyi Chu, chúng tôi đă đến trước cửa
đền. Chung quanh đền là những ngôi nhà
trọ, cửa tiệm và chuồng ngựa đợi khách
hàng trong những đám người hành hương. Từ ngày
được dựng lên trước đây mười
ba thế kỷ, ngôi đền Jo Kang vẫn luôn luôn
tiếp đón khách hành hương. Ngôi đền cổ đă biểu
lộ những nét tàn phá của thời gian. Các viên tảng
đá dưới nền đă bày ra những
đường nứt nẻ sâu đến nhiều phân
tây do những bước chân dẫm lên của hàng ngh́n tín
đồ. Những tượng thần bằng vàng
của nền tôn giáo Tây Tạng được xếp
thành hàng dài dọc theo các vách tường. Những màn lưới sắt
dầy và kiên cố giữ ǵn những pho tượng
nầy đối với những tín đồ mà ḷng tham
có thể mạnh hơn là ḷng tôn sùng. Những tượng
thần lớn nhất phần nhiều đều tràn
ngập đến quá nửa thân ḿnh với hàng
đống ngọc quư và châu báo mà những người sùng
tín cầu xin ân huệ thiêng liêng đă đặt lên đó. Trên
những chân đèn bằng vàng khối, những ngọn
bạch lạp được thấp thường xuyên,
tỏa ra ánh sáng không bao giờ tắt đă từ
mười ba thế kỷ.
Từ những góc âm u
của ngôi đền vọng đến tay chúng tôi những
tiếng chuông gân, tiếng cồng và tiếng tù và thổi
vang tai. Chúng tôi noi theo con đường ṿng trước chánh điện
theo như truyền thống bắt buộc, và sau khi đă
lễ bái xong, chúng tôi bước lên trên nóc bằng của
ngôi đền. Nơi đây chỉ có một số ít
người có đặc quyền được lên. Cha tôi, với
tư cách Bảo Thế của Giáo Hội, luôn luôn có
mặt ở tại đây mỗi khi đến viếng
ngôi đền nầy.
Tiện đây, tôi xin nói
sơ lược về nền chính trị của xứ
Tây Tạng. Đứng đầu quốc gia và Giáo Hội
là đức Đạt Lai Lạt Ma, tục gọi là
Phật Sống Tây Tạng. Ngài vừa là vị nguyên
thủ quốc gia cầm quyền chính trị, vừa là
nhà lănh đạo tôn giáo, vừa là vị Thẩm phán tối
cao cầm cán cân công lư của dân Tây Tạng. Mọi
người dân bất cứ sang hèn đều có thể
thỉnh cầu đến ngài. Nếu một sự
khiếu nại hay đơn thỉnh nguyện có lư do chính
đáng, hoặc trong trường hợp có sự bất
công oan ức, vị Đạt Lai Lạt Ma sẽ xét
xử để thỏa măn các nguyện vọng và san
bằng mọi nỗi bất công. Thật không
phải là quá đáng mà nói rằng tất cả mọi
người, không trừ một ai, đều yêu mến và
kính trọng ngài. Ngài là vị quốc vương có
quyền hành tuyệt đối. Ngài sử dụng uy quyền thế
lực của ngài v́ hạnh phúc của dân chúng, chứ
không bao giờ v́ những mục đích ích kỷ. Ngài đă tiên
đoán sự xâm lăng của quân Trung Cộng từ
nhiều năm về trước. Ngài cũng biết
rằng nền tự do của xứ Tây Tạng tạm
thời sẽ trải qua một thời kỳ xuống
dốc. V́ bởi những lư do đó mà một số ít
người trong giới tu sĩ được một
sự thụ huấn đặc biệt, để cho
những kiến thức Huyền Môn mà các nhà đạo
sĩ thời xưa đă góp nhặt từ nhiều
thế kỷ sẽ khỏi phải bị mai một và
đắm ch́m trong quên lăng.
Dưới quyền lănh
đạo của đức Đạt Lai Lạt Ma có hai
Hội Đồng: Một là Hội Đồng Tôn Giáo,
gồm có bốn vị cao tăng ở cấp đẳng
Lạt Ma. Những vị này đều chịu
trách nhiệm trước đấng Thậm Thâm (một
danh hiệu khác của đức Đạt Lai Lạt Ma. Người ta
thường gọi ngài là đức Thái Tuế,
đấng Thậm Thâm Le Très Profond, đấng Khôn
Lường, I’Inappréciable.) về những vấn đề liên quan
đến các tổ chức tu viện Lạt Ma Giáo
(lamaseries) và đạo viên trong xứ. Tất cả
những vấn đề tâm linh và tôn giáo đều
phải qua tay các vị ấy phát lạc.
Kế đó là
Hội Đồng Nội Các, gồm có bốn vị
Tổng Trưởng trong số đó có ba vị thuộc
thành phần dân chính và một vị là tu sĩ. Các vị này
nắm quyền cai trị toàn xứ và đảm trách việc ḥa hợp
Quốc Gia vào Giáo Hội thành một khối duy nhất.
Hai viên chức chánh phủ
mà người ta có thể gọi là các vị Thủ
Tướng, làm "Ủy viên liên lạc" với hai
Hội Đồng trên, và đệ tŕnh những ư kiến
của hai Hội Đồng này lên cho đức
Đạt Lai Lạt Ma. Hai vị ấy
đóng một vai tṛ quan trọng trong những phiên họp
rất hiếm của Quốc Hội, gồm năm
mươi nghị viện đại diện cho các gia
đ́nh quư tộc và những tu viện lớn nhất
của thủ đô Lhassa. Quốc Hội chỉ nhóm trong
những trường hợp rất khẩn cấp,
như hồi năm 1904 khi đức Đạt Lai
Lạt Ma lưu vong tị nạn sang Mông Cổ
trước sự xâm lăng của quân đội Anh. Về
điểm này, tưởng cần giải thích rơ rằng
sự lưu vong tị nạn của đức
Đạt Lai Lạt Ma không có nghĩa là Ngài chạy
trốn. Chiến tranh
ở xứ Tây Tạng có thể ví như một cuộc
chơi cờ tướng: Bên nào ông tướng bị
bắt th́ bên đó thua. Đức Đạt Lai Lạt Ma
là vị Quốc vương của xứ Tây Tạng. Không
có ngài, th́ mọi sự chiến đấu đều
trở nên vô ích: Ngài phải được ẩn trú an toàn để
bảo vệ sự hợp nhất của xứ sở.
Số nghị sĩ
Quốc Hội có thể lên đến bốn trăm
người khi nào những thân hào nhân sĩ ở các
tỉnh tham dự đông đủ các phiên nhóm.
Với thời gian qua,
đức Đạt Lai Lạt Ma càng gia tăng quyền
hành của ngài và không cần đến sự giúp
đỡ ư kiến của những Hội Đồng hay
của Quốc Hội nữa. Xứ Tây Tạng chưa bao
giờ có được một sự cai trị anh minh và
sáng suốt như thế.
Từ trên nóc
đền nh́n ra xa, là một phong cảnh vô cùng ngoạn
mục. Nằm về
phía đông là vùng đồng bằng Lhassa xanh tươi,
rải rác có những cụm rừng nhỏ với
những lùm nhỏ uốn khúc, phản chiếu ánh nắng
mặt trời như những con rắn bạc,
trước khi chảy vào sông Tsang Pô ở cách đó sáu
mươi cây số. Ở phía bắc và nam, những dăy núi
cao dựng lên chơm chởm như thành quách bao bọc chung quanh các vùng thung
lũng và cao nguyên Tây Tạng, làm cho dân tộc xứ này
sống biệt lập hoàn toàn với thế giới bên
ngoài. Nhiều tu viện Lạt Ma Giáo
được dựng lên trên các triền núi. Ở trên những
ngọn núi cao hơn, có những đạo viện nhỏ
nhô lên một cách nguy hiểm trên những sườn núi
cheo leo bên bờ
vực thẳm. Về phía tây, hai ngọn núi song đôi
của điện Potala và tu viện Chakpori nhô lên ở
đằng xa. Giữa hai ngọn núi này, cánh cửa Tây Môn chiếu
sáng ngời trong ánh sáng b́nh minh c̣n sương mờ
lạnh lẽo. Màu đỏ sậm của nền
trời càng nổi bật lên một cách dị
thường, tương phản với màu tuyết
trắng tinh bao phủ các dăy núi nhô lên ở phía chân
trời.
Trên đầu chúng
tôi, những đám mây lợt lướt nhẹ trong không
gian. Trong thành
phố, ở gần bên, toà Thị Sảnh day lưng vào
mặt bắc của ngôi đền. Sở Ngân Khố
ở sát bên cạnh, cùng với những gian hàng, cửa
tiệm và chợ búa mà người ta có thể mua
đủ mọi thứ, thượng vàng hạ cám. Cách đó không
xa, ở về phía đông, là một tu viện của
nữ giới và vùng cư trú của Âm Công.
Những khách hành
hương đă tấp nập trước cửa
đền, một trong những nơi thánh địa
lớn nhất của Phật Giáo. Chúng tôi nghe tiếng nói chuyện không
ngớt và những tiếng động ồn ào của các
tín đồ hành hương đến từ những vùng
xa xôi với những đồ lễ vật mà họ
đem cúng dâng với hy vọng được Ơn Trên
ban ân huệ. Có
người đem theo những con thú mà họ đă mua lại ở ḷ sát
sinh với những số tiền nhỏ nhoi khiêm tốn
của họ. Cứu sống một sinh vật dầu
đó là một con thú hay một người, là một
nghiệp tốt rất lớn về phương diện
tâm linh.
Trong khi chúng tôi nh́n xem
những cảnh tượng cổ điển đó, chúng
tôi nghe những tiếng kinh kệ ngân nga của các sư
săi, có những giọng thâm trầm của các vị sư
già chen lẫn
với những giọng thanh, nhẹ của những chú
tiểu sơ cơ. Tiếng trống và những tiếng
kèn cũng trỗi dậy vang tai.
Những sư săi không
bận rộn công việc, chạy tới lui lăng xăng không
ngớt. Vài vị mặc áo màu vàng, những vị khác
mặc màu tím, nhưng phần đông mặc áo tràng màu
đỏ lợt của những "Sư săi
thường", màu hoàn kim và màu đỏ sậm dành cho
các sư săi trong điện Potala. Những chú tiểu
sơ cơ và các sư săi cảnh binh mặc áo già sậm
cũng qua lại lăng xăng. Hầu hết đều có
một điểm chung: Áo của họ dầu cũ hay
mới, đều là áo cà sa vá từng miếng như
của Đức Phật ngày xưa.
Những sư săi có
phận sự trong điện Potala mặc một
chiếc áo vàng ngắn, không tay, ở bên ngoài áo
dài của họ. Màu hoàng kim được coi
như một màu linh thiêng ở Tây Tạng (nó không bao
giờ phai, bởi nó là một màu tinh khiết), và đó là
màu chánh thức của đức Đạt Lai Lạt Ma. Những sư
săi hay các vị Lạt Ma cao cấp hầu cận bên ngoài,
có quyền mặc áo ngắn màu vàng phủ ngoài áo của
họ.
Từ trên nóc
đền Jokang chúng tôi đi về phía điện Potala
th́ thấy có nhiều vị áo vàng đi qua lại. Chúng tôi
ngước mắt nh́n lên th́ thấy những ngọn
cờ tôn giáo phất phơ trước gió và những mái
bầu của ngôi đền chiếu lóng lánh dưới
ánh mặt trời.
Nền trời
đỏ thắm trông tuyệt đẹp với những
làn mây nhẹ và dài, coi dường như một bức
tranh vẽ. Chúng tôi vừa đang ngắm cảnh mà cảm
thấy say sưa ngây ngất, th́ mẹ tôi đă gián
đoạn cái giây phút huyền diệu đó mà nói:
- Thôi ta đi kẻo
mất thời giờ. Ḿnh phải về
xem chừng kẻo bọn gia nô nó làm hư việc.
Chúng tôi bèn lên ngựa
trở về nhà theo con đường Lingkhor, mỗi
bước chân ngựa vang trên mặt đường
lộ càng đưa tôi đến gần, điều mà
tôi gọi là một cuộc "thử thách", nhưng
mẹ tôi th́ coi như là ngày Đại Nhật của ḿnh.
Về đến nhà,
mẹ tôi xem qua tất cả mọi việc một
lần cuối cùng, và chúng tôi liền ăn uống một
bữa no bụng để chuẩn bị chờ
những ǵ sắp đến. Thật vậy, chúng tôi
biết rằng trong những dịp như thế,
những quan khách được thiết đăi ăn
uống no say, c̣n những người nhà th́ phải lo
tiếp đăi mà thôi, chớ không được ăn uống ǵ cả.
Tiếng nhạc
trống vang rền báo hiệu các sư săi nhạc công
đă đến, họ liền được đưa
vào khu vườn phía sau nhà. Họ có mang theo những kèn loa, kèn
ống, trống, tù và, và đeo chụp chơa trên cổ.
Họ vừa bước vào khu vườn, vừa nói
chuyện huyên thuyên và gọi đem rượu bia uống cho
thấm giọng để lấy hứng. Những
tiếng rít chát chúa và tiếng thổi điếc tai của những
kèn loa, chiếm trọn mất nửa giờ: Các sư săi
đang "Lên dẩy" và thử lại những
nhạc khí của họ.
Vị quan khách đầu
tiên đă đến, với một đoàn tùy tùng
cưỡi ngựa theo hầu và cầm những ngọn cờ hiệu bay
phất phơ trước gió, gây nên những tiếng
động ồn ào ngoài sân. Những cổng
sắt mở toang và các gia nô nhà tôi đứng sắp hàng
hai bên cửa vào để nghinh tiếp những
người mới đến. Vị quản gia cùng với hai
người phụ tá đứng kèm hai bên, mỗi
người cầm nơi tay hàng tá những
khăn choàng cổ bằng lụa mà người Tây
Tạng dùng để dâng cho khách như một cách chào
hỏi theo phong tục bổn sứ. Có tất cả tám
loại khăn choàng để dâng cho các vị khách tùy
chức vị hay cấp bậc cao thấp, và người
ta phải biết dâng cái nào cho thích hợp kẻo mang
lỗi bất kính. Đức Đạt Lai Lạt Ma
chỉ ban cho và thu nhận những khăn choàng thượng hảo
hạng. Những khăn choàng này tên gọi là Khata, và
đây là nghi thức để dâng biếu: Nếu
người gia trưởng có cấp bậc ngang hàng
với khách, th́ y đứng thụt lại ở phía sau,
và đưa hai tay thẳng tới trước. Người khách
cũng làm y như vậy. Kế đó, người gia
trưởng vái chào và đặt cái khăn choàng lên hai
cườm tay của vị quư khách, người này
cũng đáp lễ, rồi gỡ hai cườm tay ra,
cầm lấy khăn choàng trở qua lộn lại nơi
tay để tỏ ra ḿnh chấp nhận món quà biếu, và
giao cái khăn cho một người hầu cận.
Nếu người
biếu khăn là người ở đẳng cấp
rất thấp, th́ y qú xuống, le lưỡi ra chào (nghi
thức này tương đương với cử
chỉ ngả nón chào của người phương Tây)
và đặt cái khăn choàng dưới chân khách, kế
đó khách đáp lễ bằng cách đặt cái khăn
choàng riêng của ḿnh ṿng quanh cổ người gia
trưởng.
Ở Tây Tạng, mọi
quà biếu đều có kèm theo một cái khăn
choàng thích nghi, hoặc những thơ khen tặng hay văn
bằng tưởng lệ cũng vậy. Những
khăn choàng của chánh phủ màu vàng, c̣n những khăn
choàng khác màu trắng. Nếu đức Đạt Lai Lạt Ma muốn ban
một danh dự lớn lao cho một
người nào, ngài đặt nơi cổ người
ấy một khăn choàng cột bằng một sợi
chỉ tơ đỏ có ba ṿng. Và nếu trong khi đó ngài
đưa hai bàn tay ra, ḷng bàn tay lật ngửa lên trời, th́ đó là
một cái danh dự rất đặc biệt! Thật
vậy, người Tây Tạng tin chắc rằng quá
khứ và tương lai đều có ghi trên những
đường chỉ trong ḷng bàn tay. Đức
Đạt Lai Lạt Ma, bằng cách lật ngửa hai bàn tay của Ngài, tỏ
ḷng ưu ái và thiện cảm đậm đà nhất.
Về sau, tôi được Ngài ban cho cái danh dự đó
hai lần.
Đây nói về
người quản gia đứng tiếp đón khách
trước cửa với hai người phụ tá ở
hai bên. Y chào khách và
nhận khăn choàng của khách rồi đưa qua cho
người phụ tá đứng bên tả. Trong khi đó
người phụ tá đứng bên hữu đưa cho y
một khăn choàng thích nghi mà y đặt lên cườm tay hay lên cổ
của người khách, tùy theo cấp bậc tương
xứng. Tất cả những khăn choàng này
đều được sử dụng lại rất
nhiều lần.
Vị quản gia
và hai người phụ tá mỗi lúc càng thêm bận
rộn, v́ quan khách đến mỗi lúc càng đông. Dầu cho họ
đến từ những trang trại láng giềng, từ
thành phố Lhassa, hay từ những vùng ngoại ô,
những đoàn kỵ mă tùy tùng của họ luôn luôn đến
bằng Lingkhor, rồi đi vào con đường nhỏ
thuộc địa phận của gia tộc chúng tôi,
ở dưới bóng mát của điện Potala. Những bà
mệnh phụ phu nhân phải đi bằng ngựa trong
nhiều giờ, dùng một cái mặt nạ bằng da
để che mặt cho khỏi bị những ngọn gió
lốc có quến đầy cát bụi. Trên các mặt
nạ ấy thường có phác họa những nét chân dung
của vị chủ nhân. Khi đến nơi, các bà
mới lột mặt nạ ra và đồng thời
cởi luôn cái áo tơi bằng da con Yak. Những bức
chân dung ấy luôn luôn làm tôi thích thú: Các bà càng già và xấu,
th́ những bức chân dung vẽ trên mặt nạ lại
càng trẻ và đẹp!
Một sự
hoạt động tấp nập diễn ra trong nhà tôi. Những gia nô
không ngớt đem ra những tấm nệm cho khách
ngồi. Ở Tây
Tạng người ta không ngồi trên ghế, mà ngồi
trên tấm nệm độ một thước vuông và dày
độ hai mươi phân. Ban đêm, người ta ghép nhiều
tấm nệm lại để làm chỗ ngủ, và chúng
tôi thấy nằm ngồi trên nệm thoải mái dễ
chịu hơn là ngồi trên ghế bành hay nằm trên
giường.
Khi khách vừa đến,
họ được mời dùng trà pha bơ; và kế
đó họ được đưa vào pḥng ăn.
Tại đây, đủ các thức ăn đă dọn
sẵn và khách có thể ăn uống tùy thích trong khi
chờ đợi cuộc tiếp tân thật sự
bắt đầu. Bốn mươi vị phu nhân
thuộc gia đ́nh quyền quư đă đến cùng với
những vị quư bà tâm phúc của họ. Trong khi mẹ
tôi đang tiếp đón một nhóm các bà mệnh phụ
này, th́ một nhóm các bà khác đi dạo khắp nơi trong
nhà, ngắm nh́n bàn ghế và thưởng thức trị
giá các đồ vật trang hoàng. Thật chẳng khác nào một
cuộc "Xâm lăng" vĩ đại: Các bà
khách có mặt ở khắp nơi, đủ các h́nh
dạng, đủ các màu sắc, đủ mọi hạng
tuổi. Có vài bà xuất hiện ở những chỗ bất
ngờ nhất và không chút do dự, cất tiếng hỏi
bọn gia nô giá tiền của món đồ này, hay giá
trị của món vật khác. Nói tóm lại, các bà
xử sự như tất cả mọi người
đàn bà khác trên thế giới. Đó cũng là sự thường
t́nh. Chị Yaso của
tôi đủng đỉnh trong một bộ lễ
phục mới toanh và bới đầu theo kiểu mới nhất,
hay ít ra đó là chị nghĩ như vậy. Tôi th́ cho
rằng kiểu tóc của chị thật lố lăng, nhưng tôi luôn
luôn vẫn có óc chỉ trích những việc làm của
nữ giới. Dầu sao, có điều chắc chắn là
ngày hôm đó tôi thấy các bà có vẻ tự do xâm lăng một cách
độc đáo.
Để làm cho
cuộc tiếp tân càng sôi nổi đ́nh đám hơn
nữa, những cô gái kiểu mẫu cũng có mặt trong
hàng quan khách. Ở Tây Tạng, một vị phu nhân thuộc ḍng
sang phải có rất nhiều y phục sang trọng và
đồ nữ trang quư giá. Những bộ y phục này
cần phải được triển lăm vào những
dịp giao tế công cộng, nhưng v́ người ta
không thể làm như vậy nếu không thay đổi y
phục thường xuyên, nên những cô gái được
huấn luyện đặc biệt, gọi là
"Chủng nữ, " được dùng làm kiểu mẫu.
Bởi đó, những cô chủng nữ này khoác vào
những bộ y phục và đeo đồ nữ trang
của mẹ tôi, và vừa ngồi len lỏi trong đám
quan khách vừa uống hàng tá đếm không hết
những chén trà pha bơ, trước khi đi thay bộ y phục khác và
đeo những đồ nữ trang khác. Lẫn lộn
trong hàng quan khách, các cô ấy cũng giúp đỡ mẹ tôi
trong vai tṛ nữ chủ nhân. Trong một ngày, các cô "Chủng
nữ" đó có thể thay đổi y phục và
nữ trang đến năm sáu lần.