Ngày Xuân đọc lại giai thoại
Hồ Xuân Hương
Trần Khải Thanh Thủy
Hồ xuân Hương, con ông Hồ
sĩ Danh (1706 - 1783), em cùng cha khác mẹ với quận công
Hồ Sĩ Đống (1738 - 1786), quê ở làng Quỳnh
Đôi, huyện Quỳnh Lôi, Nghệ An. Mẹ là người
xứ bắc, khi cha và anh mất, Hồ Xuân Hương tuy
không c̣n nhỏ nhưng với thân phận thê thiếp lẽ
mọn, hai mẹ con đành phải đưa nhau trở về
đất Bắc sinh sống. Ngôi nhà nhỏ ven Hồ tây
thuộc phường Khán Xuân, khu vực núi Nùng (Bách Thảo-
Hà Nội) dẫu chỉ tranh tre nứa lá, nơi Hồ
Xuân Hưng vừa xem sách, làm thơ, vừa dạy học
tṛ nuôi mẹ già. Nhờ nhân thủy hữu
t́nh mà khách khứa dập d́u ra vào khá đông.
Những bài
thơ và giai thoại bà để lại trong thời kỳ
này khá nhiều. Giai thoại đầu
tiên xuất hiện ngay sau khi bà từ Vĩnh Phú về dựng
cổ nguyệt đường dạy học, làm thơ.
Hôm ấy một viên quan lớn trong triều
đi văn cảnh hồ Tây. Trời trong,
nước xanh- cảnh vật đẹp đến nao
ḷng v́ bao nhiêu tinh tú của đất trời dường
như tụ hội cả ở nơi đây. Nơi
mà tâm hồn nhạy cảm của bà nh́n ra và quyết
định dừng lại an cư lập nghiệp chứ
không tiến vào kinh thành Thăng Long - nơi bao văn vơ bá
quan, dân kinh kỳ kẻ chợ có máu mặt đều t́m
vào - v́ vị trí khuất nẻo so với kinh thành...
Tiếng quân lính hô hét dẹp
đường, cảnh vơng lộng nghêng ngang, tiền hô hậu
ủng, phá tan cảnh đẹp của bầu trời
nơi đây. Xuân Hương đang giặt ở ven hồ
thấy chướng tai gai mắt, liền buông rải quần
áo ven bờ, điềm nhiên nh́n thẳng vào kiệu của
quan đang đi tới, ngẫm nghĩ trong đầu,
t́m tứ thơ, rồi đọc to:
Vơng điều quan lớn
đi trên ấy
Váy rách bà con giặt dưới
này
Ví cái vơng điều của
quan lớn với váy rách của bà con quả là chua cay. Xem ra, quan thời xưa chả khác quan thời nay
là mấy. Trong khi bà con khổ sở, cùng cực th́
quan vơ vét hết cho bản thân. Nhà cao
cửa rộng, vợ nọ con kia, c̣n ô dù vơng lọng,
nghêng ngang, quát lác, chỉ ăn tàn phá hại, có lợi ǵ
cho dân đâu ?
Nghe câu đối, cả thầy,
cả tớ trợn mắt nh́n Xuân Hương, thấy
phong thái ung dung, ngôn từ sóc lỏi, độc địa,
biết không thể là đối thủ để nạt
nộ, đành lẳng lặng đi qua như không hề
nghe thấy...Chuyện này mà để lan truyền ra khắp
kinh thành Thăng Long th́ mặt quan thành mặt mo, c̣n nhục
hơn bị bà con dùng váy rách che lên mặt. Từ đó,
như quả pháo xịt ng̣i, quan mất hẳn thói nghêng
ngang, hống hách, đi đâu bỏ hết lính dẹp
đường ở nhà, Hồ Tây trở lại với
khung trời cao rộng, cây xanh, nước biếc, đẹp
mê hồn.
Giai thoại thứ hai bắt nguồn từ
hai chữ >i>cổ nguyệt (ghép lại thành chữ Hồ),
có người cho là của Chiêu Hổ cḥng ghẹo bà.
Người cổ lại c̣n
đeo thói nguyệt
Buồng xuân chi để lạnh
mùi hương ? (1)
Câu đối ghép lại
đủ cả tên họ bà, c̣n tách ra lại là sự trách
khéo: "Đă tự coi là người cổ hủ, trọng
nề nếp, gia phong lại c̣n thích thói hưởng nguyệt,
xem hoa, lả lơi, thi phú ? Đang tuổi
xuân th́ c̣n hương sắc, mà không ǵn giữ nền nếp,
gia phong th́ buồng xuân c̣n để lạnh đến bao giờ ?
Sát nhà là đền
Trấn Vơ, có gác chuông cao, treo quả chuông lớn, nhiều
chàng nho sĩ đến thăm, cũng học đ̣i, ti
toe làm thơ. Vốn táo tợn, Xuân
Hương chẳng chịu tha cho những kẻ đầy
bồ chữ nghĩa, tưởng thênh thang học rộng,
tài cao mà toàn đồ chè chai giấy lộn ấy.
Xuân Hương quyết lộn trái chúng ra:
- Được gặp các
thầy nơi đền cao cửa kín này thật vinh hạnh,
thóang trông đă rơ các thầy tài học uyên bác. Dám xin các thầy
một bài thơ được không ạ ?
-Tưởng việc ǵ chứ
thơ th́ sẵn lắm, cô cứ ra đề cho.
-Dạ tiện đây xin
các thầy vịnh quả chuông luôn, cứ lấy vần
uông làm vần.
-Tưởng được
găi đúng chỗ ngứa, ai ngờ vớ phải quả
chuông rè, chuông câm, ngoài hai tiếng kêu "bính boong" là hết,
biết gắn vần uông vào chỗ nào đây ?
Ngần ngừ, măi vẫn
tắc tị, một thầy đánh liều gạ gẫm :
- Vần uông không ổn
cô ạ, hay là...
Biết tỏng mớ chữ
nghiă giấy lộn trong đôi bồ của các thầy
không mấy đáng giá, Hồ Xuân Hương tung chưởng
cho họ rơi từ đỉnh gác chuông tới... tận
đáy hồ, không sao mọc mũi sủi tăm lên
được:
- Sao lại không ? Em thử
làm vài câu cho các thầy nghe nhé:
Một đàn thằng ngọng
đứng xem chuông,
Nó bảo nhau rằng ấy
ái uông.
Càng ở càng "sặc
nước", quần áo ướt sũng sĩnh v́ mồ
hôi, nước lạnh Hồ Xuân Hương dội lên
đầu, các thầy đành ngớ ngẩn
cười trừ rồi cút thẳng. Mỗi lần nhớ
lại vần uông, cái chuông của thi sĩ họ Hồ,
tên Hương lại buốt tận xương hông, không
dám giở tṛ văn vẻ, chữ nghiă ra trước bàn
dân thiên hạ nữa.
Cũng bởi nhà ở gần
đền mà Hồ Xuân Hương hay thơ thẩn đi
dạo, lần ấy đúng vào dịp Triều đ́nh mở
khoa thi, các sĩ tử, văn nhân từ khắp các tỉnh
thành trong cả nước dập d́u về kinh thành
Thăng Long dự thi rất đông. Trong số đó có “cậu
ấm” con quan chánh chủ khảo kỳ thi, cùng đám bạn
vàng giầu có. Nhân chơi hồ Hoàn Kiếm
thấy cảnh Đền đẹp liền kéo vào.
Để tỏ rơ tài thơ phú trước đám bạn
vàng, cậu con chánh chủ khảo liền “ Tức
cảnh sinh t́nh” vịnh luôn một bài “thẩn” đề
vào ngay vách Đền làm “ kỷ niệm”:
Khen ai đổ đất
đắp nên chùa
Một nếp thù lù ở
giữa hồ,
Mặt nước bóng chiều
đà bảng lảng
Làm sao vẫn chửa thấy
chuông khuơ ?
Xuân
Hương đang thơ thẩn quanh đó, thấy mọi
người cười cợt, chỉ trỏ, liền sà
vào, bắt gặp bài thơ và tác giả "rặn
thơ" liền ôm bụng cười ngặt nghẽo.
Cười chán, bà mượn bút mực, vung tay đề
tiếp bài thơ “cảnh tỉnh’ của ḿnh bên cạnh
để trả lời “cậu ấm” và một xâu
đám bạn ḷi tói- những cốc chén, sứt mẻ, rạn
vành, gẫy quai, thích chơi trèo của chúng:
Dắt díu nhau lên đến cửa
chiền
Cũng đ̣i học nói,
nói không nên
Ai về nhắn bảo
phường ḷi tói
Muốn sống đem vôi
quét trả đền.
Vỏ quưt dày có móng tay nhọn, gặp người khẩu khí chững
chạc đến thế, cậu ấm đành phải dựa
cột...để nghe cho thủng, xong bấm bụng, xủng
xong lốc nhốc kéo cả xâu chuỗi về. Chẳng bao giờ dám khoe dại, khoe khôn nơi
vách đền nữa. Đền
được trả lại vẻ đẹp cổ kính,
u tịch trang nghiêm ban đầu. V́ sau đó chẳng
ai dám vượt mặt “Bà chúa Thơ Nôm” để đề
“thẩn” lên tường, làm bẩn tường nữa.
Lại một
lần nữa, lúc này tiếng tăm của bà đă nổi
khắp thành Thăng Long. Đang lững thững từ
chùa Trấn Quốc về Cổ Nguyệt đường
th́ nghe có tiếng lơi lả, cḥng ghẹo ở phía sau,
biết rơ căn bệnh: ăn không nên đọi, nói chẳng
thành lời của các thầy, Xuân Hương lẳng lặng
men theo men hồ, đến sát chân núi Nùng, cạnh nhà, mới
dùng lời sắc như dao để cắt đuôi:
- Chả mấy khi
được gặp các thầy, em xin đọc hầu
các thầy một bài nhé:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn
ngơ
Lại đây chị dạy
phép làm thơ
Ong non ngứa nọc châm
hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng
húc dậu thưa
Nghe khẩu khí biết ngay
là Hồ Xuân Hương, các thầy ngượng chín cả
người. Tưởng đánh trống qua cửa nhà trời,
ai ngờ sấm dội, mưa chan...gẫy
cả dùi, vỡ cả trống. Tứ, ngũ
túc dúm hết lại, suưt th́ lộn cổ xuống hồ.
Chờ cho Xuân Hương tung tăng vào
hẳn trong nhà, các thầy mới dám xiêu vẹo bước.
Thật chẳng cái dại nào giống cái dại
nào. Đă ngứa nọc, buồn sừng
lại gặp phải dậu thưa, hoa rữa, gỡ chẳng
ra lại c̣n bị cười lỡm đến thối nọc,
gẫy sừng.
Tại cổ
nguyệt đ́nh, không ít chuyện tức cười xảy
ra. Dẫu cách 200 năm (cuối thế
kỷ 17, đầu thế kỷ 18) sự sắc sảo,
ngạo ngược của bà vẫn vượt qua lớp
rào thời gian trùng trùng, điệp điệp để
đến với thế hệ chúng ta hôm nay. Nghe một lần là nhớ, người bạo
gan th́ thích thú, kẻ hiền lành th́ xấu hổ, nhưng
không thể nào quên. Hồi bà dựng nhà ở Cổ
Nguyệt đường - sáng mở quán bán rượu,
chiều dạy học - từng tiếp xúc với nhiều
văn nho, sĩ tử, những tao nhân mặc khách trong Kinh
Thành ra chơi, song khó chịu nhất là các thầy Cử
Vơ. Vốn văn dốt, vơ dát, hễ rượu
vào là lời ra, lại toàn những lời tục tằn
nhảm nhí, chỉ từ rốn chị em trở xuống.
Bị xúc phạm sau vài lần
được các thầy "bóc trần" bản thể,
bà liền "chọc" lại bằng cách họa chân
dung chính họ cũng là cái giống quư của họ, ngầm
cảnh cáo: "Các ông càng dương dương tự
đắc, nghiêm trang, chĩnh chện bao nhiêu th́ càng giống
với cái "giống quư" bấy nhiêu mà thôi, chẳng
hơn ǵ cái "tục tằn" nơi bản thể
chúng tôi đâu.
Bác mẹ sinh ra vốn chẳng
hèn
Tối tuy không mắt, sáng
hơn đèn
Đầu đội nón
da, loe chóp đỏ
Lưng đeo bị đạn
rủ thao đen
Nghe Xuân Hương đọc
thơ, các thầy chết lặng, sượng sùng bỏ
về. Trước khi ra khỏi Cổ Nguyệt đường,
c̣n cố vớt vát một câu:
- Nó đă họa bộ dạng
chúng ta: Vừa ngây ngô, ngây ngố lại bậy bạ, tức
cười thế...Hỏi c̣n mặt mũi nào ngồi lại
được nữa?
Từ đó, như bị
d́m tận đáy hồ, các ông Cử không bao giờ c̣n
"mọc mũi sủi tăm" để ṃ đến
Cổ Nguyệt đường, tụ tập kể chuyện,
b́nh phẩm bậy bạ, chọc ngoáy lung tung và cười
cợt rẻ tiền, khiếm nhă được nữa.
Biết sợ mà vẫn phải
nể phục, lần ấy vua Gia Long tiến quân ra Bắc
Hà, sai quan chức trong thành dựng cổng trào, treo đèn kết
hoa đón tiếp...biết tài Hồ Xuân Hương, các
quan bèn cử người đến tận Cổ Nguyệt
đường để xin câu đối dán ở cổng
chào. Được tiến cử, Xuân Hương không chút
do dự viết:
Thiên tử tinh kỳ
đương bán diện
Tướng quân Thanh thế
áp tam thuỳ
Nghĩa là: Cờ xí nhà vua
dăng khắp chốn, che nửa mặt người;
Uy danh tướng quân trùm
ba cơi... ]
Câu đối được
treo lên, vua Gia Long nắc nỏm khen, bàn dân thiên hạ cười
mủm mỉm, c̣n quan bé, quan to giật điếng người...v́
phong cách nghịch ngợm của Hồ Xuân Hưng chẳng
giấu vào đâu được, khen vua mà lại xỏ ngầm
chết vua đấy. Bán diện nghiă là khuôn mặt chia ra
làm hai nửa theo chiều dọc, c̣n áp
tam thuỳ...có khác ǵ áp vào cái chỗ ba góc da c̣n thiếu ấy?
Đến nỗi chúa dấu vua yêu một cái
này th́ tướng quân dại ǵ buông tha? Câu đối
được hiểu theo nghĩa ngầm
rằng:
Che nửa mặt... rực cờ
Thiên Phủ
Trấn ba góc: rơ tài tướng
quân
Biết được cả
nghĩa ngầm lẫn nghĩa phô của câu đối, bà
con ai cũng nắc nỏm khen:
-Đúng là khẩu khí Xuân Hương thật, không có
nhưng mà có mới ngoan.
Khi,quân Tây
Sơn tiến vào giải phóng Thăng Long ghi chiến công
Đống Đa oanh liệt: Ngổn ngang giặc chết
vùi xương thành g̣ - viên tướng Sầm Nghi Đống
thắt cổ tự tử ngay tại đại bản
doanh của ḿnh. Sợ hồn ma, bóng quỷ của
hắn không chịu ngậm hờn, nuốt tủi nơi
chín suối, lại trở về quấy nhiễu
dương gian, bà con Hoa Kiều lập miếu thờ.
Vốn biết rơ sự tích, Hồ Xuân Hương đă
không mủi ḷng thương vay, khóc mướn, c̣n làm
thơ tỏ thái độ:
Ghé mắt trông ngang thấy bảng
treo
Ḱa đền thái thú đứng
cheo leo
Ví đây đổi phận
làm trai được
Th́ sự anh hùng há bấy
nhiêu.
Vào cái thưở trọng
nam khinh nữ cách chúng ta một phần tư thiên niên kỷ,
bà đă ngạo ngược: Ghé mắt trông ngang, c̣n bộc
lộ rơ thái độ của ḿnh: Ví đây đổi phận
làm trai được. Đọc bài thơ từ lời
lẽ cấu tứ, quan điểm ...nào ai dám bảo là của
nữ nhi thường t́nh làm ?
Chuyện hiền lành ít tai tiếng nhất của Hồ Xuân
Hương đối với những người mến
mộ tài năng có lẽ là lần tiếp một chú khách
người Tàu.
V́ ṭ ṃ, mến
mộ, chú khách ṃ đến cổ nguyệt đường
định thưởng nguyệt xem hoa...Nếu dễ dăi
th́ hái lấy chơi, mà lắm gai quá th́...ngó nghiêng, nghiêng
ngó rồi về (mất ǵ của ngộ?). Không ngờ
bị Xuân Hương chặn cửa bằng câu đối:
Chân đi hài Hán,
tay bán bánh Đường,
miệng hát líu lường,
ngây Ngô ngây ngố
Chú khách đứng xịu
mặt, chân di ṃn vẹt đất, hai đầu gối
reo hát trên nền gạch, trấn tĩnh măi mới nhận
ra ba chữ Hán, Đường, Ngô là tên ba triều vua
nước ḿnh mà không biết đối lại thế
nào, đành phải nở nụ cười ngây Ngô ngây ngố
mà bỏ chạy, tuột cả hài Hán lẫn bánh
Đường.
Về quê nội Quỳnh
Đôi, bà cũng đối đầu ngang ngửa với
các sĩ tử, ông đồ- những người ngưỡng
mộ bà lũ lượt kéo tới nhà để xem mặt,
bắt...hồn thơ, xem có đúng "danh bất hư
truyền" như người đời tán tụng
không ?
Trước mặt họ
là một người đàn bà nhan sắc chưa phải chim
sa cá lặn, dung mạo cũng chẳng phô bày nhung lụa,
phấn son, nhưng phong thái đoan trang, ngôn từ lịch
thiệp, lại nổi tiếng về tŕnh độ học
vấn, giỏi thơ nôm, khiến ai cũng cảm thấy
hài ḷng, mến mộ.
Cuộc thi tài diễn ra
ngay tối đầu tiên, tất cả các sĩ tử,
văn nhân đều bị đánh bại, riêng ông đồ
Dương Trí Tản- tính t́nh ngang ngạnh, tự phụ,
là ra vẻ bất cần. Chờ cho đám bạn bè thất
trận đi văn ông mới thủng thẳng t́m đến
ra mắt người đẹp.
Rít xong điếu thuốc
lào, nhả khói mù mịt gian pḥng, Trí Tản cố t́nh ứng
khẩu lại bài thơ đă chuẩn bị sẵn:
Eo lưng thắt đáy thật
là xinh,
Điếu ai hơn
được điếu cô ḿnh
Thoắt châm thoắt bén
duyên hương lửa
Càng núc, càng say tính với
t́nh
Quá dạn dĩ trong những
trường hợp mượn điếu để tả
người, vờ say thuốc để say người,
lại biết rơ tính t́nh, nguồn gốc ông đồ tự
phong (không qua thi cử, không đỗ ông cống, ông nghè, lại
thích đe... hàng tổng) Xuân Hương cho ngă ngựa luôn,
khỏi phải say sưa, mơ màng trong khói thuốc nữa:
Giương (2) oai giễu
vơ thật là kinh
Danh tiếng bao lăm
đă tản rồi
Thoáng ngửi, thoáng ghê
hơi hương lửa
Tài trí ra sao hỏi tính t́nh ?
Bài thơ tỏ rơ bản
lĩnh nhanh nhạy, sắc sảo và cũng không kém phần
thẳng thắn, quyết liệt của Hồ Xuân
Hương, dùng chính cái tên của ông đồ rởm, gơ
đầu trẻ không xong, c̣n đ̣i gơ đầu Hồ
Xuân Hương? Mượn điếu bát để tỏ
t́nh thân...gái, chưa được gái già này cho phép đă
tính chuyện ái ân (hương lửa) trong khi Xuân
Hương có cả đống người chạy theo
tán tỉnh nơi kinh kỳ, đô hội c̣n không được
nữa là người nghiện thuốc lào, suốt ngày hun
khói mù trời, ăn nói ngạo mạn, xấc xược
như ông ta. Xuân Hương là con người bằng
xương, bằng thịt, thích cảm xúc êm dịu, tao
nhă, chứ đâu phải cái điếu bát trơ khấc,
để ông muốn bén duyên hương lửa, ân ái vợ chồng lúc nào là có thể đè
ra như đè điếu được?
Vừa song phi đă ngă ngựa,
ông Trí không dám giữ bộ mặt dương dương
tự đắc nữa mà nhân lúc mọi người tản
đi v́ trời khuya, bèn bấm bụng rút lui, thua tài trí
Xuân Hương. Từ đó thôi ti toe, không c̣n giở thói
đàn anh, bắt nạt, lấn lướt, lớp nho
sinh, văn sĩ trong làng nữa.
Với độ tuổi
ngoài 65 (bà sinh năm 1767- cùng thời với Nguyễn Du và
Chiêu Hổ (1765-1768), mất năm 1833 - trước bài
thơ của Tùng Thiện Vương- tức Nguyễn
Phúc Nguyên Thẩm- viết về ngôi mộ của bà ven hồ
Tây, chín năm- cùng một trí tuệ sắc sảo, nghịch
ngợm, phong phú hơn người, hẳn cuộc đời
bà c̣n vô vàn những giai thoại, câu đối. Từ việc
khóc Tổng Cóc khi hắn và vợ con vẫn sống
nhăn răng, đến việc mừng Chiêu Hổ
đă vinh hoa, phú quư, thi đỗ ra làm quan, khóc ông Phủ
Vĩnh Tường, khóc cho thân phận ḿnh những đêm
khuya thanh vắng ...
Tiếc rằng với một
bài viết nhỏ không thể nào tải hết được,
đành phải cất "gậy thần, hồ lô"
khép cánh cửa tâm hồn, cuộc đời, giai thoại
của bà lại, chờ ra giêng ngày rộng, tháng dài, sẽ
có dịp bầy tỏ đầy đủ, kỹ lưỡng
hơn. Là bậc hậu sinh, chỉ dựa cột
nghe các bậc tiền bối đàm đạo, phán xét mà có
đôi lời bàn luận, thưa thớt. Năm hết, tết đến, có ǵ c̣n sơ suất,
xin được lượng thứ.
Kinh thành 21-1-2007
Trần Khải
Thanh Thuỷ
(1) Trong
văn bản của Đại Nam đối thi tại Học viện Viễn
Đông, Bác Cổ (Pháp) lại là một sự khẳng
định. Không rơ là tam sao thất bản hay chủ ư của
người trêu:
Buồng
xuân chỉ để lạnh mùi hương ?
(2) Từ
đồng âm với tên họ Dương của ông
Trí.