Một chút hiểu biết về
Đau nhức và Trị liệu
BS Trịnh Cường - DS Trịnh Nguyễn
Đàm Giang
Đau nhức
được định nghĩa như là một cảm
giác khó chịu và một kinh nghiệm về cảm
giác đi đôi với hao
tổn các mô. Định nghĩa này chấp nhận sự
kiện rằng sự hao tổn các mô có thể không hiện
diện mặc dầu có sự đau nhức dữ dội
và có thể do những lư do về tâm trí.
Những kích
thích độc hại (noxious stimuli) tác dụng trên các giây
thần kinh. Những tín hiệu độc hại
đi theo những giây thần kinh chạy
về trung tâm (giây A delta cho cảm giác nóng lạnh và cơ
động và giây C cho những cảm giác khác) và dẫn
theo những đường kích thích độc hại
đi lên đồi năo, vùng dưới đồi năo
(thalamus và hypothalamus), và vỏ năo. Từ những
trung tâm cao cấp, những đường dẫn
đưa tín hiệu đau nhức xuống tới phần
năo tủy phía lưng (dorsal horn).
Cơn đau nhức thần
kinh là một trường hợp trong đó tín hiệu
đau nhức khởi sự từ những mức độ
khác của một hệ thống thần kinh có tác dụng
bất thường hơn là từ những đoạn cùng
của giây thần kinh.
Một sự đánh giá
toàn diện chú trọng tới thời điểm, nơi
phát xuất, mức độ, phẩm chất,
những yếu-tố gây
nên hoặc làm giảm cơn đau, cách chữa trị
trong quá khứ và t́nh trạng tâm trí rất quan trọng
trong việc định bệnh và chữa trị.
Các loại đau nhức
Đau nhức cấp tính
(như sau khi giải phẫu) theo một tiến tŕnh thẳng
và do một căn
nguyên rơ rệt, một tiêu
biểu đặc biệt (nhăn nhó, rên rỉ), một
tác động quá mức của hệ thống thần
kinh đa cảm (tim đập nhanh, thở mau, xuất hạn
mồ hôi) và lo sợ. Trong khi chờ đợi sự chữa
trị theo căn nguyên, việc điều trị tùy thuộc
vào những thuốc kháng viêm không phải steroid (NSAIDs) và thuốc
giống như nha phiến (opioids) .
Đau nhức mạn tính
là cơn đau nhức kéo dài sau sự tiếp diễn
thông thường hoặc cơn đau gây nên bởi một
căn bệnh kinh niên đang tiến triển. Thời điểm được ấn định
một cách chuyên chế như là một, ba hay sáu tháng.
Nó thường đi đôi với những triệu chứng
như khó ngủ, ăn không ngon, giảm ham muốn t́nh dục
và suy nhược tâm thần .
Cơn đau nhức kéo dài
phát khởi từ sự tác động những thụ thể
tiếp dẫn độc hại (nociceptors) đ̣i hỏi
chữa trị liên tục với thuốc kháng viêm không phải
steroid hay thuốc giống nha phiến. Nếu kết quả
khả quan hơn, th́ đổi từ cách chích qua cách uống
với dự định giảm dần dần khi mà
cơn đau bớt sẽ có hiệu quả.
Cơn đau nhức do ung thư gây nên đ̣i hỏi sử dụng thuốc
giống nha phiến và thuốc kháng viêm không có steroid một
cách liên tục với những liều thuốc giống
nha phiến thêm vào khi cơn đau thay đổi. Đối
với những bệnh nhân bị ung thư, sự tái diễn
hoặc gia tăng cơn đau thường là tín hiệu
báo trước rằng bệnh sẽ nặng hơn và mang
theo một gánh nặng tâm trí xă hội đ̣i hỏi một
sự nâng đỡ về phương diện tâm thần .
Sự đau nhức do sự
viêm thần kinh ngoại biên hoặc đau nhức do hậu
nhức gân do thủy bào chẩn (postherpetic neuralgia/ mắc
chứng giời ḅ) có thể làm bớt nhờ thuốc thuộc
nhóm tricyclics.
Cơn đau nhức từng
hồi do viêm thần kinh cũng đ̣i hỏi chữa trị
liên tục với thuốc như loại kháng động
kinh (anticonvulsants) trong một giai đoạn dài.
Những cơn đau nhức
từng hồi do động tác gây nên (ví dụ như ung thư chạy vào xương) đ̣i hỏi
những liều tương đối cao thuốc giống
nha phiến có tác dụng ngắn hạn trước khi di động.
Nguồn
đau nhức
Sự
phân biệt đầu tiên là giữa cơn đau từ một
chỗ (focal, đau nhức thần kinh sau khi bị giời
ḅ), từ nhiều chỗ (multifocal, đau nhức v́ ung
thư chạy vào xương) hay toàn diện (trong chứng
đau nhức sơ và bắp thịt ).
Đau nhức nhiều chỗ
có thể phát khởi từ một nơi bị tổn
thương, ví dụ lồi nhân giữa đốt sống
lưng L 5 và S 1( herniated nucleus pulposus between L 5 and S 1) gây nên
đau nhức ở lưng, phía sau đùi, và ở ngón chân
thứ năm. Đau nhức giây thần kinh giữa
xương sườn có thể bị tổn
thương khi giải phẫu vú để trị ung thư hay để cắt bỏ bướu
ở chóp phổi, thường gây nên đau ở nách, phía
trong cánh tay và phía trước và bên cạnh ngực.
Đau lưng v́ ung thư tùy tạng và đau vai bên phải do sự
ăn lấn vào gan, màng bao phổi và hoành cách mô là những
nơi đau nhức chuyền dẫn thường
được nhận thấy.
Mức
độ đau nhức, phẩm chất và yếu tố
cảm giác
Đau nhức là một cảm giác chủ
quan v́ vậy sự xét đoán về mức độ tùy
thuộc vào sự báo cáo của người bệnh.
Người bệnh có thể không báo cáo sự đau nhức
v́ một số lư do: những kinh nghiệm trước v́
thiếu sự bồi đáp khi khai là đau, cảm tưởng
thấy khó chịu từ những người săn sóc
hay kẻ thân thuộc, và muốn tỏ ra rằng ḿnh chịu
đựng giỏi và là một bệnh nhân tốt. V́ vậy
khi săn sóc cho những bệnh nhân mắc bệnh nào mà ta
được biết là gây nên đau nhức, ta cần hỏi
bệnh nhân về cơn đau.
Đau nhức quá mức với
lư do độc hại gây nên hoặc môt sự đáp ứng
không thích hợp với sự chữa trị cho ta biết
rằng có thể có những lư do về tâm thần không
được chú trọng tới.
Cơn đau nhức dữ
dội nếu xảy ra một cách cấp tính phải
đựợc coi như một khẩn cấp và được
chữa trị một cách mau chóng bất kể nguyên do. Thuốc giống nha phiến chích là thuốc nên
dùng trong trường hợp này.
Cơn đau nhức nhói dựt
là do một nguyên nhân viêm thần kinh và sẽ được
chữa trị hữu hiệu bằng thuốc loại
tricyclics, thuốc trị động kinh và thuốc tê dùng tại
chỗ. Sự lo sợ và suy thoái tâm thần là những t́nh
trạng ảnh hưởng tới mức độ
cơn đau và cần được theo
dơi bằng sự nâng đỡ về tâm trí.
Định
bệnh
Cơn
đau có thể bắt nguồn do kích thích nơi tiếp dẫn
độc hại, do viêm giây thần
kinh, và do tâm thần.
* Cơn đau do kích thích thụ
thể tiếp dẫn độc hại (nociceptor pain) phát
khởi từ những sự kích thích thụ thể tiếp
dẫn độc hại (đoạn chót giây thần kinh).
Nguyên nhân thường rơ rệt và cơn đau thường
được tả như là nhức nhối hay đè nén
thường được chữa trị hữu hiệu
bằng thuốc kháng viêm không phải steroid và thuốc giống
nha phiến.
* Cơn đau nhức giây
thần kinh phát khởi từ nhiều tầng lớp khác
nhau của một hệ thống thần kinh bị tổn
thương. Ta cần phải phân biệt giữa cơn
đau từ ngoại biên trong giây thần kinh sinh ba
(trigeminal neuralgia) và từ trung ương hay từ đồi
thị (thalamic pain) tuy nhiên hai cơn đau có thể có cùng
một lúc. Cả hai loại đau nhức
đó đều chữa trị bằng một loại thuốc.
Sự quan trọng của sự phân biệt đó do sự
kiện cơn đau từ ngoại biên có thể đựợc
trị hữu hiệu bằng một số phương
thức (cắt bỏ hay chích thuốc vào một bướu
thần kinh, giải phẫu để thả giây thần
kinh bị đè nén) hay dùng thuốc tê tại chỗ
.
Cơn đau nhức do sự
đè nén giây thần kinh hoặc sự viêm gốc thần
kinh (do ung thư hay lồi nhân giữa hai đốt
xương sống) có tính cách như nóng phỏng hay bị
điện giựt nhưng cơ chế là do sự kích
thích nơi tiếp nhận độc hại và sẽ
được chữa trị công hiệu bằng thuốc
giống nha phiến , thuốc kháng viêm
không phải steroid và thuốc steroid.
*Đau nhức do tâm trí
Ta cần phải nghĩ
đến loại này mỗi khi cơn đau nhức không
thể giải thích được qua sự hiểu biết
về Y-khoa hiện tại. Ta cần phải phân biệt
giữa sự giả vờ (malingering) hay một rối loạn
nhân tạo (factitious disorder). Những người
giả vờ đau thường phải được
hưởng lợi ǵ nhưng sự hưởng lợi
duy nhất cho những người bị rối loạn
nhân tạo là được chấp nhận ở vào t́nh
trạng đau ốm. Những người ở vào
t́nh trạng sau luôn luôn sẵn sàng bằng ḷng chịu những
phương thức truy tầm nguy hiểm. Nói
một cách khác, khi những triệu chứng đau nhức
được gây nên một cách vô ư thức, những định
bệnh có thể được nghĩ tới là sự
hoán chuyển (conversion), thân thể thực thể hoá
(somatization), đau nhức tưởng tượng
(hypochondriasis) và suy thoái tâm thần nặng.
Dược
phẩm trị liệu đau nhức
Nguyên tắc
Sự
phân biệt được giữa ba loại đau nhức
(1) đau nhức do kích thích thụ thể tiếp dẫn
độc hại, (2) đau nhức dây thần kinh, và (3) đau nhức do tâm trí sẽ hướng dẫn
đến cách chữa trị đau nhức hữu hiệu.
Trong một hội chứng đau nhức,
nhiều thuốc có cơ chế khác biệt có thể sẽ
được nhắm dùng để trị đau nhức.
Sự thay
đổi giữa những cá nhân về sự đáp ứng
và sự mẫn cảm đối với thuốc cũng
rất thông thường. Nhiều loại
thuốc cần phải được thử cho những
bệnh nhân bị đau nhức thần kinh mạn tính.
Những thuốc không công hiệu phải
đựơc giảm dần trước khi dùng thuốc
khác. Những thuốc đưa tới
một sự đáp ứng một phần, có thể
được tiếp tục nếu dễ chịu; thường
thường một phối hợp những thuốc khác
nhau sẽ hữu hiệu hơn là dùng một thứ thuốc.
Thuốc loại nha phiến (Opioids)
Loại này là một loại
thuốc trị đau nhức lư tưởng nhất . Thuốc loại này thường
không có tác dụng trần (ceiling effect )
và nếu tăng liều dần dần sẽ cung cấp một
sự giảm đau sâu mạnh hơn. Sự công hiệu
của loại này bao gồm trị cơn đau do kích
thích thụ thể tiếp nhận độc hại,
cơn đau giây thần kinh và một vài h́nh thức
đau do tâm trí.
Phản ứng phụ thông
thường nhất là gây táo bón có thể ngăn ngừa
được bằng cách dung thuốc nhuận trường.
Thuốc không có độc tính lâu dài đáng kể
và có thể dùng được nhiều năm. Sự ghiền thuốc không đáng kể khi
được dùng trong ṿng chữa trị. Việc sử
dụng loại thuốc này để chữa trị
cơn đau nhức kinh niên không phải do ung thư gây nên c̣n trong ṿng bàn căi, tuy nhiên có một
nhóm bệnh nhân bị đau nhức kinh niên không phải do
ung thư hưởng lợi với thuốc giống nha
phiến dùng lâu dài.
Tramadol (Ultram)
Tramadol là một loại thuốc
trị đau nhức có tác dụng nhẹ trên những thụ
thể tiếp nhận chất giống nha phiến và tác dụng
giống như loại tricyclics kháng suy thoái tâm thần trên
các chất truyền dẫn thần kinh. Nó có sức mạnh
kháng đau nhức tương đương với loại
thuốc giống nha phiến nhẹ (thí dụ như
acetaminophen có codeine) nhưng thời gian tác dụng dài hơn
(6 giờ) Thuốc này có nhiều phản ứng phụ về
đường ruột .
Thuốc kháng viêm không có steroid (NSAIDs)
Thuốc
này có tác dụng tới trần và những phản ứng
phụ trên bao tử và thận đă được biết
rơ. Cơ chế
hoạt động là sự áp chế diếu-tố
cyclooxygenase, với sự giảm thiểu những chất
gây viêm được biết là có tác dụng trên những
thụ thể tiếp nhận độc hại. Thuốc
có công hiệu để chữa trị cơn đau nhức
v́ ung thư. Sự công hiệu của
thuốc này trong việc chữa tri cơn đau nhức thần
kinh rất ít. Thuốc đặc biệt áp chế COX 2
như celecoxib (Celebrex) có ít ảnh hưởng trên màng nhày
bao tử và sự dính chùm tiểu cầu và được
coi như là an toàn hơn loại kháng viêm khác nhưng có thể
gây những phản ứng bất lợi cho tim
mạch.
Một số
bác sĩ ngoại chẩn trước đây thường
cho toa thuốc thuộc nhóm này như là thuốc tiên khởi
để trị đau nhức thần kinh. Nhưng hiện nay thực chứng cho thấy loại
này chỉ có hiệu nghiệm nếu bệnh nhân bị cả
hai loại đau nhức vừa đau nhức thần
kinh vừa đau nhức không bắt nguồn từ thần
kinh. Loại này đă được biết
là có khá nhiều phản ứng phụ.
Thuốc kháng suy thoái tâm thần loại
tricyclic (Tricyclic antidepressant drugs/TCAs)
Thuốc
thuộc nhóm này đă được chứng tỏ là làm
giảm cơn đau nhức thần kinh ngoài tác dụng
trên tâm thần. Amitryptiline
và desipramine làm giảm cơn đau trong chứng đau nhức
thần kinh ngoại biên và đau nhức thần kinh sau khi
bị bệnh giời ḅ (postherpetic neuralgia). Nortriptyline,
imipramine và doxepin cũng công hiệu.
Những phản ứng phụ
thông thường nhất của loại tricyclics là làm buồn
ngủ, làm áp huyết xuống khi đứng dậy
(orthostatic hypotension), bí tiểu, khô miệng, táo bón, rối
loạn sự truyền dẫn trong tim
và làm nặng bệnh gia tăng áp suất mắt. Những người lớn tuổi thường
dễ bị những phản ứng phụ trên. Desipramine có ít phản ứng phụ hơn và
cũng ít làm ngầy ngật buồn ngủ hơn. Thuốc
thường bắt đầu cho dùng với liều thấp
rồi tăng dần dần lên sau mỗi tuần.
Những thuốc đặc biệt áp chế thụ thể
tái thu nhận serotonin(selective serotonin reuptake inhibitors) như
escitalopram, paroxetine, fluoxetine, và sertraline, dường như không
công hiệu trong việc chữa trị cơn đau nhức
thần kinh. Loại này nếu có dùng có lẽ chỉ có hiệu
nghiệm như thuốc trị trầm cảm và lo âu
đôi khi có ảnh hưởng đến cơn đau kinh
niên.
Thuốc áp chế tái hấp thụ serotonin và
norepinephrine như
duloxetine (Cymbalta) làm giảm cơn đau do đau nhức
thần kinh gây nên bởi bệnh tiểu đường
(diabetic peripheral neuropathic pain). Những người bị
suy thận nặng có CrCl thấp hơn 30 ml/min hay ở
giai đoạn chót của bệnh thận không nên dùng loại
này.
Một loại
chống trầm cảm khác thuộc loại này là venlafaxine
(Effexor) cũng đă được thử dùng để
điều trị đau nhức thần kinh nhưng từ
khi có duloxetine th́ ít được dùng hơn.
Thuốc trị động kinh
Thuốc
thuộc loại này công hiệu để chữa trị
những cơn đau co giật v́ tổn thương giây
thần kinh. Chúng cũng có ích trong sự
điều trị đau nhức thần kinh từ trung
ương. Cơ chế hoạt động
thay đổi tùy loại thuốc, có loại cơ chế
chưa được biết rơ. Carbamazepine
là thuốc công hiệu được dùng đă lâu nhưng
phenytoin và valproic acid cũng hữu hiệu.
Một loại
thuốc khác trị động kinh levetiracetam (Keppra)
cũng đă được dùng như là một thuốc
trị liệu đau nhức thần kinh.
Gabapentin (Neurontin)
đă được chứng minh là công hiệu trong sự
chữa trị cơn đau thần kinh ngoại biên và hậu
bệnh giời ḅ. Liều được dùng có thể từ
300 mg đến 3600 mg một ngày uống chia làm 3 lần.
Liều thấp nhất cần được dùng khi khởi
sự và tăng dần ba ngày một lần. Phản
ứng phụ thông thường nhất là làm buồn ngủ.
Thuốc pregabalin (Lyrica) một
thuốc có thay thế tương tự 3 của GABA
(3-substituted
analogue of gamma-amino butyric
acid), đă được FDA chấp thuận để
dùng trị đau nhức thần kinh do bệnh tiểu
đường và đau nhức thần kinh hậu giời
ḅ.
Cả hai thuốc
gabapentin và pregabalin đều có cùng một cơ chế gắn
vào kênh calcium và hướng dẫn hồi lưu calcium cùng ảnh
hưởng đến dẫn truyền gamma-amino butyric
acid.
Thuốc topiramax (Topamax)
được chấp thuận cho dùng với chỉ định
nhức nửa đầu (migraine headache), nhưng gần
đây một phân tích meta cho thấy thuốc
này có hiệu nghiệm làm giảm đau nhức thần
kinh. Ngoài ra thuốc này lại có thêm lợi ích khác như giảm
cân, (cỡ 5-10 lbs), giảm huyết áp, làm giảm lipids
trong máu, dùng khá an toàn như trị liệu
thứ hai hay thứ ba. Có chút tài liệu cho thấy thuốc
này có thể tăng gia phục hồi chức năng thần
kinh. Với liều thấp th́ khá an toàn,
nhưng với liều cao hơn 100 mg hang ngày, bệnh nhân
có thể khó tập trung tư tưởng hay khó nhớ.
Nói chung, những thuốc
trị động kinh dùng để chữa đau nguồn
từ thần kinh gồm: gabapentin (Neurontin®); nhóm dibenzazepine
như carbamazepine (Tegretol®, Carbatrol®), oxcarbazepine (Trileptal®); và
ít thông dụng hơn là những thuốc như levetiracetam
(Keppra®), lamotrigine (Lamictal®), topiramate (Topamax®), và zonisamide
(Zonegran®).
Thuốc làm tê lidocaine và
thuốc chống nhịp tim đập
nhanh bất thường cũng đă được dùng
để điều trị đau nhức thần kinh Loại
này gồm tocainide (Tonocard®) and mexiletine (Mexitil).
Thuốc bôi ngoài da thường được dùng cho
trường hợp đau hậu giời ḅ. Thuốc loại này gồm
capsaicin (Zostrix® and Zostrix-HP). 5% Lidocaine patch (Lidoderm patch)
cũng an toàn và có thể có hiệu nghiệm
giảm bớt đau nhức do thần kinh.
Nói tóm lại, trị liệu
đau nhức do thần kinh đôi khi gặp nhiều khó
khăn v́ đau thần kinh hầu như không đáp ứng
tốt với NSAIDs và thuốc thuộc loại như nha
phiến, nhưng thuốc trị trầm cảm và thuốc
trị động kinh cho thấy có hiệu nghiệm khả
quan Một cách thức điều trị đề nghị
trong buổi họp lần thứ tư về cơ chế
và trị liệu đau nhức thần kinh, in trong Archives of
Neurology cổ động hướng
dẫn trị liệu qua năm loại thuốc gồm
thuốc trị trầm cảm tricyclic, gabapentin, 5% Lidocaine
patch, opiods, và tramadol (Ultram). Chọn lựa một thuốc
để điều trị đau nhức thần kinh
thường căn cứ trên những lư do gây nên bệnh,
cùng những điều kiện phụ thuộc như yếu
tố nguy cơ, bệnh nhân thích ứng với thuốc,
và giá cả.
BS Trịnh
Cường - DS Trịnh Nguyễn Đàm Giang