B́nh Ngô Đại Cáo
Bản diễn
Nôm Nguyễn Trăi
Đại thiên hành hóa hoàng thượng nhược
viết.
Cái văn:
Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an
dân,
Điếu phạt chi sư mạc tiên khứ bạo.
Duy, ngă Đại Việt chi quốc,
Thật vi văn hiến chi bang.
Sơn xuyên chi phong vực kí thù,
Nam bắc
chi phong tục diệc dị.
Tự Triệu Đinh Lư Trần chi triệu tạo ngă quốc,
Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi
các đế nhất phương.
Tuy cường nhược th́ hữu bất đồng,
Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.
Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,
Nhi Triệu Tiết hảo đại dĩ xúc vong.
Toa Đô kí cầm ư Hàm Tử quan,
Ô Mă hựu ế ư Bạch Đằng hải.
Kê chư văng cổ,
Quyết hữu minh trưng.
Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà.
Chí sử nhân tâm chi oán bạn.
Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc
ngă dân;
Ác đảng hoài gian, cánh dĩ mại ngă quốc.
Hân thương sinh ư ngược diệm,
Hăm xích tử ư họa khanh.
Khi thiên vơng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;
Liên binh kết hấn nẫm ác đăi nhị thập niên.
Bại nghĩa thương nhân, càn khôn kỉ
hồ dục tức;
Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mi hữu kiết
di.
Khai kim trường tái mạo lam chướng
nhi phủ sơn đào sa,
Thái minh châu tắc xúc giao long nhi căng yêu thộn hải.
Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hăm tịnh,
Điễn vật chức thúy cầm chi vơng la.
Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại
ḱ sinh,
Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an ḱ sở.
Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt
chi vẫn nha;
Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải
vũ.
Châu lí chi chinh dao trọng khốn,
Lư diêm chi trữ trục giai không.
Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc
ḱ ô,
Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư
ḱ ác.
Thần dân chi sở cộng phẫn,
Thiên địa chi sở bất dung.
Dư:
Phấn tích Lam Sơn,
Thê thân hoang dă.
Niệm thế thù khởi khả cộng đái,
Thệ nghịch tặc nan dữ câu
sinh.
Thống tâm tật thủ giả thùy thập
dư niên,
Thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật.
Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược
chi thư,
Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi
lí.
Đồ hồi chi chí
Ngộ mị bất vong.
Đương nghĩa ḱ sơ khởi chi
th́,
Chính tặc thế phương trương chi nhật.
Nại dĩ:
Nhân tài thu diệp,
Tuấn kiệt thần tinh.
Bôn tẩu tiên hậu giả kí phạp ḱ nhân,
Mưu mô duy ác giả hựu quả ḱ trợ.
Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất
nhi dục đông;
Cố ư đăi hiền chi xa, thường cấp cấp
dĩ hư tả.
Nhiên ḱ:
Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng
dương,
Do kỉ chi thành thậm ư chửng nịch.
Phẫn hung đồ chi vị diệt,
Niệm quốc bộ chi tao truân.
Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần,
Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ.
Cái thiên dục khốn ngă dĩ giáng quyết nhiệm,
Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan.
Yết can vi ḱ, manh lệ chi đồ tứ tập;
Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất
tâm.
Dĩ nhược chế cường, hoặc
công nhân chi bất bị;
Dĩ quả địch chúng thường thiết phục
dĩ xuất ḱ.
Tốt năng:
Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,
Dĩ chí nhân nhi dị cường bạo.
Bồ Đằng chi đ́nh khu điện xế,
Trà Lân chi trúc phá hôi phi.
Sĩ khí dĩ chi ích tăng,
Quân thanh dĩ chi đại chấn.
Trần Trí Sơn Thọ văn phong nhi sỉ
phách,
Lư An Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh.
Thừa thắng trường khu, Tây Kinh kí vị
ngă hữu;
Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu
cương.
Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn
lí;
Tốt Động chi thi tích dă, di xú thiên niên.
Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, kí kiêu ḱ thủ;
Lư Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết
thi.
Vương Thông lí loạn nhi phần giả
ích phần,
Mă Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ.
Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ
đăi vong;
Ngă mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất.
Vị bỉ tất dị tâm nhi cải
lự,
Khởi ư phục tác nghiệt dĩ tốc cô.
Chấp nhất kỉ chi kiến dĩ giá họa
ư tha nhân,
Tham nhất th́ chi công dĩ di tiếu ư thiên hạ.
Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng,
độc binh vô yếm;
Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nọa tướng,
dĩ du cứu phần.
Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn
binh do Khâu Ôn nhi tiến,
Nản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân
đồ tự Vân Nam nhi lai.
Dư tiền kí tuyển binh tái hiểm dĩ
tồi ḱ phong,
Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn
ḱ thực.
Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị
ngă quân sở công, kế trụy ư Chi Lăng chi dă;
Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu
vị ngă quân sở bại, thân tử ư Mă An chi sơn.
Nhị thập ngũ nhật Bảo
Định bá Lương Minh trận hăm nhi táng khu,
Nhị thập bát nhật Thượng thư Lư Khánh kế
cùng nhi vẫn thủ.
Ngă toại nghênh nhận nhi giải,
Bỉ tự đảo qua tương công.
Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ
bao vi,
Ḱ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt.
Viên tuyển t́ hưu chi sĩ,
Thân mệnh trảo nha chi thần.
Ẩm tượng nhi hà thủy càn,
Ma đao nhi sơn thạch khuyết.
Nhất cổ nhi ḱnh khô ngạc đoạn,
Tái cổ nhi điểu tán quân kinh.
Quyết hội nghĩ ư băng
đê,
Chấn cương phong ư cảo diệp.
Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi
tống khoản,
Thượng thư Hoàng Phúc diện phọc dĩ tựu cầm.
Cương thi tái Lượng Giang Lượng
Sơn chi đồ,
Chiến huyết xích Xương Giang B́nh Than chi thủy.
Phong vân vị chi biến sắc,
Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.
Ḱ Vân Nam binh vị ngă quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng
nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ;
Ḱ Mộc Thạnh chúng văn Liễu Thăng vị ngă quân
sở bại ư Cần Trạm, toại lận tạ
bôn hội nhi cận đắc thoát thân.
Lănh Câu chi huyết chử phiếu, giang thủy vị chi ô
yết;
Đan Xá chi thi sơn tích, dă thảo vị chi ân hồng.
Lưỡng lộ cứu binh kí bất toàn chủng nhi câu bại,
Các thành cùng khấu diệc tướng giải giáp dĩ
xuất hàng.
Tặc thủ thành cầm, bỉ kí trạo ngạ hổ
khất liên chi vĩ;
Thần vơ bất sát, dư diệc thể thượng
đế hiếu sinh chi tâm.
Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mă Kỳ, tiên
cấp hạm ngũ bách dư sưu, kí độ hải
nhi do thả hồn phi phách tán;
Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mă Anh, hựu cấp
mă sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự
cổ lật tâm kinh.
Bỉ kí uư tử tham sinh, nhi tu hảo hữu
thành;
Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc
tức.
Phi duy mưu kế chi cực ḱ thâm viễn,
Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến
văn.
Xă tắc dĩ chi điện an,
Sơn xuyên dĩ chi cải quan.
Càn khôn kí bĩ nhi phục thái,
Nhật nguyệt kí hối nhi phục minh.
Vu dĩ khai vạn thế thái b́nh chi cơ,
Vu dĩ tuyết thiên địa vô cùng chi sỉ.
Thị do thiên địa tổ tông chi linh hữu
Dĩ mặc tương âm hữu nhi trí
nhiên dă
Ô hô!
Nhất nhung đại định, hất
thành vô cạnh chi công;
Tứ hải vĩnh thanh, đản bố duy tân chi cáo.
Bá cáo hà nhĩ,
Hàm sử văn tri.
Bản dịch
của Ngô Tất Tố
Thay trời
hành hóa, hoàng thượng chiếu rằng,
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đă lâu,
Nước non bờ cơi đă chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lư, Trần; bao đời xây nền
độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ
một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mă
Việc xưa xem xét.
Chứng cứ c̣n ghi.
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước ḷng dân oán hận
Quân cuồng Minh thưà cơ gây loạn
Bọn gian tà c̣n bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trờị
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển ḍng
lưng ṃ ngọc,
Ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đăi cát t́m vàng,
Khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt ḍ chim sả, chốn chốn
lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu
đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng,
Máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất,
Chân tay nào phục dịch cho vừa ?
Nặng nề những nổi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch
mùi!
Ḷng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha;
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dă nương ḿnh
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau ḷng nhức óc, chốc đà mười mấy
năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn v́ giận, sách lược thao
suy xét đă tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế
đắn đo càng kỹ
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt v́:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm ḷng cứu nước,
Vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền,
Thường chăm chắm c̣n dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng,
Miịt mù như nh́n chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc ḷng,
Vội vă hơn cứu người chết đói.
Phần v́ giận quân thù ngang dọc,
Phần v́ lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử ḷng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cơi một nhà,
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một ḷng phụ tử,
Ḥa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu
chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạọ
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đă hăng quuân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lư An, Phương Chính, nín thở cầu
thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ
thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn
dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ
để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đă phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lư Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy,
Mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mă Anh cứu trận đánh
Mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong,
Giặc đă trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất,
Ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn
Nên đă thay ḷng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính
Lại c̣n chuốc tội gây oan.
Giữ ư kiến một người,
Gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc,
Để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhăi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa
cháy
Đinh mùi tháng chín,
Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười,
Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đă điều binh thủ hiểm,
Chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường
Tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng
thất thế
Ngày hai mươi, trận Mă Yên, Liễu Thăng cụt
đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại
bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lư Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng ṃn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Dánh một trận, sạch không ḱnh ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để
tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy
đường
Xương Giang, B́nh Than, máu trôi đỏ
nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt
phải mờ.
Bị ta chặn ở Lê Hoa,
Quân Vân Nam nghi ngờ, khiếp vía mà vỡ mật
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm,
Quân Mộc Thạnh xéo lên nhau, chạy để thoát thân.
Suối Lănh Câu, máu chảy thành sông,
Nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi,
Cỏ nội đầm đ́a máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù,
Như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại,
Thể ḷng trời ta mở đường hiếu sinh
Mă Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc
thuyền,
Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mă Anh, phát cho vài ngh́n cỗ ngựa,
Về đến nước mà vẫn tim đập chân
run.
Họ đă tham sống sợ chết mà ḥa
hiếu thực ḷng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế ḱ diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xă tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhă sạch làu
Muôn thuở nền thái b́nh vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
Linh thiêng đă lặng thầm phù trợ;
Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh b́nh,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
Bản Hán
văn
平吳 大 告
代 天 行 化 皇上 若 曰。
蓋 聞 ﹕
仁 義之 舉, 要 在 安 民,
弔伐 之 師 莫 先 去 暴 。
惟, 我 大 越 之 國,
實 為文 獻 之 邦 。
山 川 之 封域 既 殊,
南 北 之 風 俗亦 異 。
自 趙 丁 李 陳 之肇 造 我 國,
與 漢 唐 宋元 而 各 帝 一 方 。
雖 強弱 時 有 不 同
而 豪 傑 世未 常 乏 。
故 劉 龔 貪 功以 取 敗,
而 趙 好 大 以 促 亡 。
唆 都 既 擒 於 鹹 子 關 ,
烏 馬 又 殪 於 白 藤 海 。
嵇 諸 往 古,
厥 有 明 徵。
頃 因 胡 政 之 煩 苛 。
至 使 人 心 之 怨 叛 。
狂明 伺 隙, 因 以 毒 我 民;
惡 黨 懷 奸, 竟 以 賣我 國 。
焮 蒼 生 於 虐 焰,
陷 赤 子 於 禍 坑 。
欺天 罔 民, 詭 計 蓋 千 萬狀;
連 兵 結 釁 稔 惡 殆二 十 年 。
敗 義 傷 仁 ,乾 坤 幾 乎 欲 息;
重 科厚 歛, 山 澤 靡 有 孑 遺。
開 金 場 塞 冒 嵐 瘴 而斧 山 淘 沙,
採 明 珠 則觸 蛟 龍 而 緪 腰 汆 海 。
擾 民 設 玄 鹿 之 陷 阱 ,
殄 物 織 翠 禽 之 網 羅 。
昆 虫 草 木 皆 不 得 以 遂其 生,
鰥 寡 顛 連 俱 不獲 以 安 其 所 。
浚 生 靈之 血 以 潤 桀 黠 之 吻 牙;
極 土 木 之 功 以 崇 公私 之 廨 宇 。
州 里 之 征徭 重 困,
閭 閻 之 杼 柚皆 空 。
決 東 海 之 水 不足 以 濯 其 污,
罄 南 山之 竹 不 足 以 書 其 惡 。
神 民 之 所 共 憤,
天 地之 所 不 容 。
予
奮 跡 藍山,
棲 身 荒 野 。
念 世讎 豈 可 共 戴,
誓 逆 賊難 與 俱 生 。
痛 心 疾 首者 垂 十 餘 年,
嘗 膽 臥薪 者 蓋 非 一 日 。
發 憤忘 食, 每 研 覃 韜 略 之書,
即 古 驗 今, 細 推究 興 亡 之 理 。
圖 回 之志
寤 寐 不 忘 。
當 義 旗初 起 之 時,
正 賊 勢 方張 之 日 。
奈 以 ﹕
人 才秋 葉,
俊 傑 晨 星 。
奔走 先 後 者 既 乏 其 人 ,
謀 謨 帷 幄 者 又 寡 其 助。
特 以 救 民 之 念, 每鬱 鬱 而 欲 東;
故 於 待賢 之 車, 常 汲 汲 已 虛左 。
然 其
得 人 之 效 茫若 望 洋,
由 己 之 誠 甚於 拯 溺 。
憤 兇 徒 之 未滅,
念 國 步 之 遭 迍 。
靈 山 之 食 盡 兼 旬,
瑰縣 之 眾 無 一 旅 。
蓋 天欲 困 我 以 降 厥 任,
故與 益 勵 志 以 濟 于 難 。
揭 竿 為 旗, 氓 隸 之 徒四 集
投 醪 饗 士, 父 子之 兵 一 心 。
以 弱 制 彊, 或 攻 人 之 不 備;
以寡 敵 眾 常 設 伏 以 出 奇。
卒 能
以 大 義 而 勝 兇殘,
以 至 仁 而 易 彊 暴。
蒲 藤 之 霆 驅 電 掣 ,
茶 麟 之 竹 破 灰 飛 。
士氣 以 之 益 增,
軍 聲 以之 大 振 。
陳 智 山 壽 聞風 而; 褫 魄,
李 安 方 政 假 息 以 偷生 。
乘 勝 長 驅, 西 京既 為 我 有;
選 兵 進 取, 東 都 盡 復 舊 疆 。
寧橋 之 血 成 川, 流 腥 萬里;
窣 洞 之 屍 積 野 ,遺 臭 千 年 。
陳 洽 賊 之腹 心, 既 梟 其 首;
李亮 賊 之 奸 蠹, 又 暴 厥屍 。
王 通 理 亂 而 焚 者益 焚,
馬 瑛 救 鬥 而 怒者 益 怒 。
彼 智 窮 而 力盡, 束 手 待 亡;
我 謀伐 而 心 攻, 不 戰 自 屈。
謂 彼 必 易 心 而 改 慮,
豈 意 復 作 孽 以 速 辜。
執 一 己 之 見 以 嫁 禍於 他 人,
貪 一 時 之 功以 貽 笑 於 天 下 。
遂 靈宣 德 之 狡 童, 黷 兵 無厭;
仍 命 晟 昇 之 懦 將, 以 油 救 焚 。
丁 未 九月 柳 昇 遂 引 兵 猶 邱 溫而 進,
本 年 十 月 木 晟又 分 途 自 雲 南 而 來 。
予 前 既 選 兵 塞 險 以 摧其 鋒,
予 後 再 調 兵 截路 以 斷 其 食 。
本 月 十八 日 柳 昇 為 我 軍 所 攻, 計 墜 於 支 稜 之 野 ;
本 月 二 十 日 柳 昇 又 為我 軍 所 敗, 身 死 於 馬鞍 之 山 。
二 十 五 日 保定 伯 梁 銘 陣 陷 而 喪 軀,
二 十 八 日 尚 書 李 慶計 窮 而 刎 首 。
我 遂 迎刃 而 解,
彼 自 倒 戈 相攻 。
繼 而 四 面 添 兵 以包 圍,
期 以 十 月 中 旬而 殄 滅 。
爰 選 貔 貅 之士,
申 命 爪 牙 之 臣 。
飲 象 而 河 水 乾,
磨 刀而 山 石 鈌 。
一 鼓 而 黥刳 鱷 斷,
再 鼓 而 鳥 散麇 驚 。
決 潰 蟻 於 崩 堤,
振 剛 風 於 稿 葉 。
都督 崔 聚 膝 行 而 送 款 ,
尚 書 黃 福 面 縛 以 就 擒。
僵 屍 塞 諒 江 諒 山 之途,
戰 血 赤 昌 江 平 灘之 水 。
風 雲 為 之 變 色,
日 月 慘 以 無 光 。
其雲 南 兵 為 我 軍 所 扼 於梨 花 ,自 恫 疑 虛 喝 而先 以 破 腑;
其 沐 晟 眾聞 柳 昇 為 我 軍 所 敗 於芹 站, 遂 躪 藉 奔 潰 而僅 得 脫 身 。
冷 溝 之 血杵 漂, 江 水 為 之 嗚 咽;
丹 舍 之 屍 山 積, 野草 為 之 殷 紅 。
兩 路 救兵 既 不 旋 踵 而 俱 敗 ,
各 城 窮 寇 亦 將 解 甲 以出 降 。
賊 首 成 擒, 彼既 掉 餓 虎 乞 憐 之 尾 ;
神 武 不 殺, 予 亦 體 上帝 孝 生 之 心 。
參 將 方政, 內 官 馬 騏, 先 給艦 五 百 餘 艘, 既 渡 海而 猶 且 魂 飛 魄 散;
總兵 王 通, 參 政 馬 瑛 ,又 給 馬 數 千 餘 匹, 已還 國 而 益 自 股 慄 心 驚。
彼 既 畏 死 貪 生, 而修 好 有 誠;
予 以 全 軍為 上, 而 欲 民 之 得 息。
非 惟 謀 計 之 極 其 深遠,
蓋 亦 古 今 之 所 未見 聞 。
社 稷 以 之 奠安,
山 川 以 之 改 觀 。
乾 坤 既 否 而 復 泰,
日月 既 晦 而 復 明 。
于 以開 萬 世 太 平 之 基,
于以 雪 天 地 無 窮 之 恥 。
是 由 天 地 祖 宗 之 靈 有
以 默 相 陰 佑 而 致 然 也 !
於 戲 !
一戎 大 定, 迄 成 無 兢 之功;
四 海 永 清, 誕 布維 新 之 誥 。
播 告 遐 邇,
咸 使 聞 知 。
阮 廌